4- Ý THỨC, THẾ GIỚI VÀ THỰC TẠI
Như ta thấy, tiến trình và kết quả nhận thức trở nên trừu
tượng so với thực tại nếu ý thức giới hạn ở một ý niệm. Trên
phương diện khác, khởi điểm và đối tượng ý thức hướng đến luôn là
giới hạn, do vậy, không thể đồng nhất kết quả nó đạt được là chân
lý, thực tại. Để quan sát, ngôi nhà ta cần và luôn ở vị trí nhất
định. Sau nữa, ngôi nhà là toàn thể, tuy nhiên ta chỉ thể quan sát
từng phần, từ thị giác đến ý niệm
về nó trong nhận thức. Ngoài những điều ấy, xác định rằng ý
thức là sự kiện thực. Không có phủ nhận tiến trình và kết quả ý
thức trên ý nghĩa hiện tượng. Trong thực tế, điều con người thường
làm là phủ nhận các ý niệm qua ngôn ngữ trong tranh luận, qua vật
thể trong chiến tranh như bạo lực. Điều này khác biệt sự phủ nhận
chính tiến trình ý thức, nhưng đó là điều không thể. Khả năng xảy ra
trong cùng thời điểm, ta có thể quan sát ngôi nhà từ vị trí khác, đi
đến những nhận thức độc lập với kết quả ban đầu. Ví dụ rằng, kết
quả quan sát ngôi nhà là mảng tường với trường hợp này, ngôi nhà là
mái ngói với trường hợp kia, độc lập lẫn nhau. Phủ nhận từ kết quả
này đến kết quả kia chỉ là phủ nhận ý niệm. Nó nằm ngoài ý thức
đang có ý niệm đó. Giả thiết và cũng là thực tế thêm rằng, ngoài
nhận thức thụ động, ý thức có thể thay đổi sự vật, hiện tượng
thông qua hành vi trong tiến trình quan sát. Khi ấy, cũng không thể phủ
nhận toàn thể tiến trình. Ta có thể đặt lọ hoa về vị trí cũ theo
ý thích, song không thể bỏ qua việc nó đã bị xê dịch bởi hành vi
của người quan sát trước. Với cái nhìn trên, cùng ghi nhận ý thức
và thực tại là phát sinh mọi hiện tượng, ta không thể phủ nhận các
thế giới như tiến trình thành lập của nó. Thực tế rằng, các phủ
nhận chỉ có tính chất lý thuyết của nó, vốn là sự kiện thực. Ta
có thể viết ra cuốn sách khác bác bỏ các quan niệm trong cuốn sách
nào đó nhưng không là bác bỏ chính tiến trình nhận thức ở đầu óc
tác giả. Tiến trình ấy đã xảy ra trong sự kiện suy nghĩ,cuốn sách
chỉ là biểu hiện hiện tượng của nó. Phủ nhận như quan niệm thông
thường là hiện tượng khác thuộc về tiến trình khác, chẳng hạn việc
đốt sách. Giả dụ thêm rằng, cuốn sách là một lý thuyết cách mạng.
Nhà cầm quyền có thể phủ nhận tiến trình thực tế là hành động
cách mạng tương ứng bằng bạo lực. Tuy nhiên, đó là hiện tượng khác
và có sau ý thức là tác giả lý thuyết cách mạng.
Như vậy, việc không thể phủ nhận các ý thức với tiến trình,
kết quả, biểu hiện thực tế của nó dẫn đến điều không thể có hình
ảnh chung về thế giới. Trong hình dung ta nhận được vô số thế giới
nhưng không đạt đến nó trên thực tại. Lại nữa, không thể đặt phép
cộng, hoặc trừ trước các thế giới
này để đưa ra hình ảnh tổng quát và duy nhất. Cái gọi thế
giới duy nhất chỉ là sản phẩm của thói quen nhận thức bị ràng buộc
trong ý niệm duy nhất của nó. Có thể quyết định, ý niệm này cũng
như nhiều ý niệm khác chỉ cho năng lực nhận thức, thao tác và những
giới hạn của nó. Đưa đến kết luận sau cùng, tìm ra một hình ảnh
thống nhất, hoặc cố định là việc làm vô nghĩa và không thể.
Với căn tảng là ý niệm trật tự, xác định, ý thức sẽ nhận ra
sự hỗn độn, bất định của thực tại. Nếu như ý thức ghi nhận thế
giới như tấm ảnh, ta thấy rằng không có sự trật tự, hoặc hỗn độn
nào trên đó. Tính trật tự, hoặc hỗn độn xảy ra ngay khi sau đó, ý
thức đưa ra một phác họa kế tiếp về đối tượng. Khi tấm ảnh thực tế
tiếp theo, đồng nhất với hình dung, ý thức xem rằng thực tại là
trật tự. Ngược lại, một khi tấm ảnh thực tế khác đi, ý thức quyết
định rằng thực tại là hỗn độn bất định. Tương tự cho các xác định
của ý thức về thực tại: sự sinh ra, tiêu hủy, gián đoạn và liên
tục… Phân biệt hiện tượng con gà và quả trứng dẫn đến điều quả
trứng sinh ra con gà hay điều ngược lại. Ý niệm sự sinh mất đi khi ý
thức tri nhận thực tại là duy nhất. Cái gọi ”con gà”, “quả trứng”,
“sự sinh ra” chỉ là ý niệm của nhận thức trước hoặc sau thực tại,
nó đã hoàn toàn trừu tượng. Vòng tròn nhân quả này là một giả đề
của ý thức. Một khi sự xác thực con gà là tức khắc, trong nó không
còn bất kỳ ý niệm trước nào đó:
quả trứng ngày thứ ba mươi, quả trứng ngày thứ nhất…
Xét từ cơ cấu nhận thức, sự bất đồng giữa thực tại và ý
thức là điều không thể vượt qua. Chính từ sự bất đồng này khai sinh
mọi lý thuyết, thực tiễn trong thế giới. Ta hình dung một quan sát
đặt ngay, tức đồng nhất với mặt phẳng lý tưởng nào đó. Quan sát
này nhận ra mặt phẳng là vô hạn. Nó không thể ghi nhận bất kỳ dấu
vết trên mặt phẳng. Nó chỉ thể xem xét những hiện tượng trên mặt
phẳng khi có sự tách rời theo chiều cao hoặc sâu. Hiển nhiên theo độ
cao, hoặc sâu, nó sẽ có các giới hạn tương ứng.
So sánh mặt phẳng như thực tại, quan sát là sự kiện ý thức.
Một khi ý thức đồng nhất với thực tại, ta nhận ra sự chấm dứt của
một thế giới. Ở đó là tình trạng đồng nhất tuyệt đối, không có
nhận thức, khoa học, hình ảnh bất kỳ về thế giới thực tại. Với sự kiện ý thức,
tình trạng đồng nhất bị phá vỡ. Quan sát đang cách ly thực tại theo
độ cao nào đó. Khoảng cách này là thời gian theo nhận thức thông
thường. Như vậy, với thời gian càng lớn bề mặt thực tại càng được
mở rộng, tuy nhiên sự xác thực ngày càng giảm đi. Ngược lại, ở thời
gian nhỏ bề mặt thực tại thu hẹp lại. Ta hình dung một cái hình
nón. Đỉnh nón biểu thị ý thức. Mặt phẳng đáy biểu thị thực tại.
Đáy nón là những hiện tượng mà ý thức đã ghi nhận trên thực tại,
tức là cái đã biết đối với nó. Góc ở đỉnh đặc trưng cho khả năng
nhận thức của từng trường hợp cụ thể, là cá nhân như ý thức thường
xác định. Tồn tại nhiều ý thức khác nhau dẫn đến điều trên mặt
phẳng thực tại có nhiều hình nón như thế. Chúng ở trong nhau, ngoài
nhau, với những cao độ khác nhau. Theo tiến trình nhận thức từ cái
đã biết đến cái chưa biết ta nhận ra sự nâng cao của những hình nón
này. Cùng với đó, sự lãng quên trí nhớ làm nó hạ thấp xuống. Một
khi hiện tượng ý thức chấm dứt, hình nón ấy đồng nhất với mặt
phẳng thực tại. Cái gọi sự chết cá nhân là trường hợp này. Ta lại
nhận ra, theo việc mở rộng cái đã biết cùng sự lãng quên trí nhớ,
thực tế không có một hình nón cố định. Nó di động theo cả hai chiều
và có thể trở thành một điểm trên mặt phẳng thực tại. Tương ứng là
khả năng ý thức cá nhân nào đó.
Ta xem xét một hiện tượng cụ thể theo mô hình này. Ví dụ thực
tại quả cam trong quan sát giả định. Ngay khi sự việc nhận thức, thực
tại đồng nhất đã trở thành hiện tượng quả cam trong quan sát. Một
phút sau sự kiện, nó được xác định màu vàng, hình cầu. Rõ ràng là
những ý niệm màu vàng, hình cầu đang nằm trong ý thức người quan
sát. Hiện tượng mở rộng theo việc xác định: sự lột vỏ ghi nhận các
múi, các hạt. Đáy hình nón mở
rộng dần. Tương ứng thế ý thức càng lùi xa thực tại ở sự kiện ban
đầu. Cho rằng năm phút sau sự kiện đầu tiên là việc xác định các
hạt. Giả thiết quan sát cùng kính hiển vi và các phân tích hóa học
kèm theo. Theo một chiều hướng, các loại đường, a-xít, nhiễm sắc thể
được xác định. Theo chiều hướng khác, hạt giống được gieo xuống, nảy
mầm, phát triển nên một cây cam nào đó. Giả thiết và như thực tế ba
năm sau người quan sát nhận được những trái cam khác.
Sau những sơ lược, nhận xét rằng các hạt, a xít, nhiễm sắc
thể là có ở chính thực tại quả cam. Thời gian năm phút sau sự kiện
ban đầu nảy sinh do giới hạn nhận thức. Người quan sát cần những
điều kiện khác để xác định các hiện tượng có sẵn trong thực tại.
Tương tự, có thể phân ly nước qua phản ứng hóa học để xác định
thành phần hyđrô, ôxy trong nó. Không thể xem các nguyên tố này xuất
hiện từ phi thực tại hoặc từ thực tại nào khác. Những quả cam sau
ba năm là sự khai mở, và cũng là giới hạn ý thức trước thực tại.
Hiện tượng một quả cam trong xác định đầu tiên, những quả cam ở ba
năm sau chỉ ra hai giới hạn khác nhau của nhận thức trong một tiến
trình. Tương tự như ta có thể bổ quả cam bằng dao để xác định số
hạt “bên trong”, hoặc xác định tức thời bằng các tia vật lý.
Ta vừa nhận được hình ảnh về một thế giới theo một quan sát.
Theo mô hình, đó là một hình nón có chiều cao ba năm. Đáy nón là
toàn thể hiện tượng đã quan sát: những trái cam khác. Chú ý rằng đây
là hình nón tĩnh tại, tương đương người quan sát nhớ lại toàn bộ
quá trình.Thực tế sự kiện là những hình nón di động, có thể lớn
lên hoặc thu hẹp tùy vào ý thức quan sát. Giới hạn nhỏ nhất là một
điểm trên thực tại tương ứng người quan sát không còn nhớ gì sự
kiện. Giới hạn lớn nhất của mở rộng là hình nón ta đã mô tả trên.
Hiển nhiên về phía tương lai, hình nón có thể mở rộng theo mọi
trường hợp. Những quả cam vào mùa khác, cây cam sau ba năm bị đốn
gốc, những cây cam mới được trồng.
Để soi sáng thêm hiện tượng, ta đưa vào một quan sát khác ở
thời điểm quả cam bị bổ ra. Như vậy, hạt cam trong quan sát này là
không có nguồn gốc. Vẫn hạt cam ấy, trong quan sát thứ nhất có nguồn
gốc năm phút. Ở đây quan sát thứ nhất có thể tường thuật quá trình,
tức cung cấp nguồn gốc cho quan sát thứ hai. Tuy nhiên điều ấy là
những mô tả lý thuyết về hiện tượng, không thể thay thế chính quá
trình đã xảy ra. Tiếp nhận của người thứ hai chỉ là việc mở rộng
các ý niệm theo cung cấp từ bên ngoài. Tương tự trong điều ngược lại,
khi quan sát thứ hai phủ nhận nguồn gốc hạt cam trong quan sát thứ
nhất. Đó là sự phủ nhận lý thuyết, không thể bác bỏ hoặc thay thế tiến trình nhận
thức đã xảy ra ở quan sát thứ nhất. Trên phương diện nhận thức đó
là giới hạn ý thức về thực tại.
Nó như việc ở ngay thời điểm đó người quan sát không thể tri nhận bên
trong hạt cam có những gì?
Để bớt phức tạp việc theo dõi, giả định tiến trình ý thức
và hiện tượng trong quan sát thứ hai giống như trường hợp đầu. Hạt
giống được gieo xuống, ba năm sau cây cam trổ hoa và kết quả. Như vậy,
thực tế tiến trình bắt đầu từ sự kiện quan sát thứ hai ghi nhận
hạt cam giống. Tiến trình này cũng như tiến trình trước đó quy định
bởi ý thức và hành vi thực tiễn. Ngoài ý thức đó không còn tồn
tại bất kỳ tiến trình nào khác, theo nghĩa chưa hoặc không xảy ra.
Cũng nghĩa rằng, nếu như tồn tại nhiều khả năng ý thức ở cùng hiện
tượng, có thể xảy ra những tiến trình khác độc lập với hai tiến trình
vừa nêu. Chú ý rằng, sự kiện đầu tiên của quan sát thứ nhất là quả
cam. Sự kiện đầu tiên của trường hợp sau là xác định hạt giống. Hai
sự kiện này là độc lập, theo nghĩa được xác định bởi hai ý thức
khác nhau. Ngộ nhận xảy ra, tiến trình thứ hai là có sau, xuất phát
từ sự kiện trước. Đây đã là xác định của ý thức thứ nhất, quan
sát của nó chứa đựng tiến trình thứ hai, nhưng không đồng nhất với
chính tiến trình. Tương tự rằng, người lớn tuổi có thể ghi nhận
cuộc đời người nhỏ tuổi thua mình, nhưng anh ta không thể sống chính
cuộc đời ấy. Và cũng là, không thể lấy quan sát của anh ta về những
sự kiện sinh ra, trưởng thành… để đồng nhất bản thân người đang sống.
Ta xem xét mặt bằng thực tại ở thời gian ba năm năm phút: những
cây cam đã ra trái. Theo từng quan sát, những cây cam có quá trình
khác nhau. Nếu như so sánh, theo thói quen nhu cầu về một xác định
chung sự khác nhau của hai quá trình là năm phút chênh lệch. Như qua
diễn giải so sánh này là vô nghĩa.Mở rộng hơn, ta không thể xác định
một lịch sử chung cho thế giới, là đời sống con người hay vũ trụ.
Trên thông lệ, xác định chung ấy lấy sự kiện nào đó thuộc về
một trong nhiều thế giới làm gốc. Từ ấy, mô tả thế giới còn lại
theo thế giới có sự kiện gốc. Xác định chung ấy là một, hoặc hệ
thống hình ảnh về thế giới. Không thể xem nó như các thế giới với
tiến trình thực tế của chúng.
Theo thực tế nhận thức, con người có thể trao đổi những ý
tưởng bên trong qua ngôn ngữ, ký hiệu. Chẳng hạn Platon trao đổi tồn
tại thế giới ý niệm, theo ông, đến Arixtốt. Tiến trình nhận thức
của thầy Arixtốt không thể đạt, nhưng kết quả đã được tiếp nhận. Sự
kiện này khởi đầu một tiến trình nhận thức khác: quan niệm tồn tại
thế giới vật chất theo Arixtốt. Tính bất xác giữa ý tưởng và ý niệm
diễn dịch, giữa ý tưởng và ngôn từ biểu đạt dẫn đến điều những
tiến trình nhận thức khác biệt có
thể nảy sinh trên một số ý niệm
căn tảng chung nhau. Tức rằng,
có những đệ tử Platon sẽ nhận thức khác thầy, kể cả khác Arixtốt.
Tương tự là cũng trước những hạt
cam người quan sát này tiến hành
gieo, quan sát khác nghiền ra tìm hiểu cấu tạo bên trong. Không loại
trừ sẽ có những ý tưởng và hành vi thực tế giống nhau: những hạt
cam cùng được gieo xuống.
Trường hợp có những tiến trình nhận thức giống nhau, thường
dẫn đến xác tín rằng bản chất thế giới là thế. Khẳng định hạt
giống gieo xuống nảy mầm, phát triển thành cây, cây ra trái nằm vào
trường hợp này. Quan sát giống nhau hiện tượng mặt trời quay từ Đông
sang Tây dẫn đến khẳng định: trái đất là trung tâm, sự quay của mặt
trời. Điều này như ta biết chỉ là miêu tả hiện tượng. Khoa học đã
chỉ ra những cái nhìn khác…
Có nhận xét rằng, trên phương diện khoa học, nhận thức số đông
không giữ một vai trò quan trọng gì. Sự kiện mới được khai phá được
xem như một phát minh. Ngược lại, trong đời sống xã hội, quan điểm số
đông trở nên quyết định. Điều này biểu thị một khía cạnh máy móc
khác trong nhận thức?
Trường hợp những tiến trình nhận thức khác nhau nảy sinh trên
một số ý niệm chung có phức tạp hơn. Ở đây bất kể những khác biệt,
ý thức tìm ra sự giống nhau nào đó. Từ ấy, nó đưa ra một hình ảnh
xấp xỉ các hiện tượng được xem như bản chất theo quan niệm của nó.
Ý thức bỏ qua năm phút của quan sát đầu tiên để kết luận hạt giống
sau khi gieo ba năm sẽ kết quả. Mở rộng với người quan sát thứ ba, ba
năm sáu tháng sau đó hạt giống
được gieo cho kết quả. Thống kê các trường hợp, ý thức đưa ra hình
ảnh xấp xỉ rằng chu trình cây cam là ba đến bốn năm. Theo quan niệm
của nó đây là tiến bộ của nhận thức về bản chất thế giới. Khẳng
định cố định gắn với cá thể được thay bằng những mô tả thống kê cho
nhiều đối tượng. Đời sống kinh tế quyết định chế độ chính trị. Khoa
học kỹ thuật chi phối nền luân lý… Nhận xét ngắn rằng không thể xem
tính chất thống kê của nhận thức như một bản chất thống kê nào đó
của thế giới thực tại. Tính thống
kê chỉ cho phép nhận thức không vượt quá một số giới hạn từ nó. Ví
dụ rằng, khẳng định hạt giống một tháng sau khi gieo không thể có
kết quả. Trên phương diện khác, tính xác định của thống kê là giới
hạn theo các đối tượng cơ bản trong nó. Chu
trình cây cam chỉ đúng khi các hiện tượng động đất, thiên tai không
xảy ra. Ta chú ý, những hiện tượng vừa nêu không nằm ngoài mặt phẳng
thực tại. Theo nghĩa ấy, tức việc mở rộng đối tượng, hình ảnh
thống kê về toàn thể trở nên vô nghĩa. Xác định là duy nhất khi chỉ có một cây kim trên mặt
bàn, tương ứng một mô tả về hiện tượng. Khi số kim tăng lên, để xác
định một cây kim trong tương quan toàn thể số mô tả tăng lên. Tuy nhiên,
hình dung của ý thức về nó sẽ giảm đi. Khi số kim là vô cùng, nhận
thức qua mô tả đã hoàn toàn bất xác trước hiện tượng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét