Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2016

THỜI GIAN- CÕI Ý

5- THỜI GIAN



   Theo quan niệm phổ biến tồn tại yếu tố thời gian có nguồn gốc đâu đó. Nó nằm trong những phát biểu đại loại: trong dòng thời gian, thời gian là yếu tố quyết định, hai ngàn năm trước, anh ta sống sáu mươi tuổi… Tồn tại thời gian như tưởng niệm? Trực nhận thực tại chấm dứt mọi ý niệm thời gian như ta từng xác định. Ở đây ta xem xét vấn đề theo những chiều hướng khác.
  Như thông lệ, thời gian được gắn liền những đổi thay của thế giới hiện tượng. Xét một ví dụ đơn giản: chiếc lá di động. Ở đây ý thức đã vận động từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ ấy nó thiết lập liên hệ giữa hai trạng thái,là phát sinh cho ý niệm thay đổi. Sự thay đổi ấy dựa trên hình ảnh cố định chiếc lá ở vị trí đầu tiên trong nhận thức. Nếu như hình ảnh này không được tạo thành, hiển nhiên hình ảnh sau không có cơ sở để so sánh, liên hệ. Ý niệm thay đổi sẽ mất đi nếu ý thức luôn là đồng thời hiện tượng. Ta hình dung một quan sát ở chính chiếc lá. Một quan sát ở ngoài nó đang chuyển động, chẳng hạn một con bướm. Và một quan sát bên ngoài cố định. Từ ba nguồn quan sát sẽ có những ghi nhận khác nhau cho cùng hiện tượng, tức rằng có những thế giới khác nhau được thành lập. Cái gọi thay đổi chỉ có một trong ba thế giới. Với con kiến trên chiếc lá do kích thước của nó hiện tượng không có gì thay đổi. Với con bướm, theo đường bay hiện tượng là vệt xanh nhòe đi. Với người đứng yên dưới gốc hiện tượng mới là chiếc lá di động.Ta không thể lấy xác định của thế giới này gán cho thế giới kia, hoặc xem như thực tại. Tính tương đối trong sự thay đổi, tức tính tương đối của thời gian, chỉ ra cái gọi thời gian là đặc trưng cho từng thế giới. Nó gắn với những sự vật, khả năng cụ thể trong mỗi thế giới đó.
  Ta hãy xem một ví dụ khác. Để quan sát ngôi nhà ta bắt đầu từ vị trí nhất định, sau đó vòng quanh bên ngoài, lần lượt vào trong các gian phòng,trở ra vị trí cũ hoặc mới. Nhận  thức khi ấy hình thành cái gọi có trước có sau trong cùng căn nhà. Hiển nhiên ngôi nhà là tồn tại đồng thời trên mọi chiều hướng, vị trí. Không có sự trước, sau, tức yếu tố thời gian cấu  tạo nó. Thời gian chỉ xuất hiện do những khả năng giới  hạn của ý thức. Nó không thể ghi nhận ngôi nhà ngay trong tức khắc như là toàn thể thực tại.
  Cũng thế, giả định người quan sát đứng yên, ngôi nhà chuyển động. Ý thức khi đó ghi nhận hiện tượng tương tự trường hợp trên. Ngôi nhà lúc này là khung cửa sổ, lúc kia là cửa chính. Với quan sát chuyển động cùng ngôi  nhà, lúc này và lúc kia là cố định ở vị trí nào đó, chẳng hạn một phòng khách. Nói khác đi, với quan sát ấy không có cái gọi lúc này và lúc kia trong cùng ngôi nhà. Ý niệm ấy chỉ đến khi có sự trao đổi quan sát với một ý thức bên ngoài. Như đã xét, không thể lấy kết quả từ ý thức này áp đặt cho ý thức khác. Cái lúc này và lúc kia có thể đối với quan sát bên ngoài nhưng chưa là từng có đối với ý thức bên trong. Lại chú ý, ta không phủ nhận cái lúc này và lúc kia, có trước và có sau trong quan sát bên ngoài. Tương tự là, ta có thể chỉ ra điều “ sai” của một ý tưởng nhưng không thể phủ nhận bản thân ý tưởng một khi nó đã hình thành.
  Trở lại ví dụ, ta nhận ra thời gian là đặc trưng cho ý thức trong việc tiếp nhận và khai mở thực tại. Nó gắn liền những điều kiện giới hạn của ý thức. Không thể quy đồng nó với thực tại, cũng không thể tìm một thời gian tuyệt đối. Sau đó, ý thức với nhiều giới hạn khác nhau, có những xác định thời gian khác nhau nếu như so sánh. Thực ra so sánh này là vô nghĩa. Nó xuất phát từ ý muốn nhìn nhận thế giới một cách thống nhất của nhận thức con người. Trên hình thức, đó là việc mô tả nhiều sự vật, hiện tượng trên cùng hệ thống hoặc cùng trục tọa độ. Ý thức này quan sát ngôi nhà trong “ một giờ”, với ý thức kia là “ba giờ ”. Ở đây đơn vị giờ chỉ là một phương thức mô tả. Trường hợp này, liên hệ giữa hai hiện tượng còn có nội dung chung là xác định ngôi nhà.Thực tế có những liên hệ hoàn toàn vô nghĩa, chẳng hạn so sánh người này sống ba mươi tuổi, người kia sáu mươi tuổi.
  Có thể hình dung tương quan ý thức, thời gian, thực tại như sau. Xem thực tại là căn phòng tối và đủ rộng. Giả thiết tối chỉ nhằm dễ quan sát hiện tượng. Ý thức giới hạn là những nguồn sáng trong phòng tối. Một nguồn sáng như thế chiếu rọi một phần căn phòng và tương ứng vị  trí, hướng chiếu, độ sáng của nó. Có thể hình dung thời gian như vùng sáng này. Nó bị quy định bởi nguồn chiếu trực tiếp, không có liên hệ bất kỳ với nguồn sáng nào khác. Ta không thể cộng các vùng sáng để đạt một kết quả tổng quát và duy nhất. Tiếp đó cũng không thể đồng nhất một hoặc nhiều vùng sáng như đặc trưng căn phòng. Nghĩa như rằng, thời gian không là thuộc tính nào đó của thực tại. Sau hết, ta lưu ý rằng hiện tượng không thay đổi khi căn phòng được chiếu sáng từ trước đó. Điều này tương ứng ý thức vượt trên những giới hạn.
  Ta nhận ra trên phương diện khác, ý niệm thời gian biểu hiện sự bất túc của nhận thức trước đối tượng. Nếu như ngôi nhà được ghi nhận trọn vẹn trong khoảnh khắc, thời gian không được thiết lập ở đó. Do nhận thức giới hạn ta mới có những xác định đại loại: lúc sáu giờ ngôi nhà là khung cửa sổ, lúc chín giờ ngôi nhà là những bức tranh, lúc mười hai giờ người nhà đi ngủ… Tăng vô số quan sát với những tiến trình khác nhau, sau đó tổng hợp các kết quả, ta vẫn không thể nhận thức ngôi nhà toàn thể với ý niệm duy nhất. Chú ý rằng, ngay khi xác định và mô tả, hiện tượng tức thời đã trở thành quá khứ, là những ý niệm mà người quan sát còn lưu về thực  tại. Điều này còn nghĩa rằng quá khứ là những cái được ý thức nhận biết. Sau đó, theo tiến trình khảo sát, ngôi nhà có những tương lai gắn với cái chưa biết đối với ý thức. Tuy nhiên thực tại ngôi nhà là không quá khứ, không tương lai. Diễn đạt trên ngôn ngữ khác, ngôi nhà không từ đâu đến, không đi về đâu.
  Để tạm kết thúc ta nhấn mạnh điều quan trọng sau. Toàn thể tiến trình tựa trên ý niệm một ngôi nhà cố định, và do đó giới hạn. Đây là định kiến về thực tại, ý thức đưa ra một xác
định chung trước trong tiến  trình khảo sát của nó. Trong một số trường hợp, xác định chung này là các ý niệm: vũ trụ, bản thể, tự thể… Ta thấy ý thức chỉ thể khảo sát sau khi có xác định chung và là giới hạn. Tương tự ta chỉ thể tính diện tích hình phẳng sau khi xác định đường bao của nó, là chu vi. Tuy nhiên không thể đồng nhất cái khái niệm đó như là thực tại. Ví dụ rằng, sau khi đi vòng, trở lại vị trí đầu tiên người quan sát có thể ngộ nhận có một “ngôi nhà”: như thế. Một khi từ bỏ ý niệm ngôi nhà, ta nhận ra thực tại đó là vô hạn. Người quan sát sẽ đi quanh ngôi nhà mà không có sự dừng, không có kết thúc. Các quan sát và kết luận giới hạn ngôi nhà thực chất là giới hạn của chính nhận thức trong các phương thực xác định: trở về vị trí cũ, từ cửa trước ra cửa sau, dừng lại ở một bức tường. Kết thúc duy nhất chỉ thể là sự mất đi của hiện tượng ý thức. Hiển nhiên, khi đó không phải là thực tại đã biến mất. Lưu ý rằng thực tại vô hạn đã đặt trong tương quan với các xác định hữu hạn của ý thức. Đến đây ta có thể từ bỏ cả ý niệm vô hạn để nhìn nhận thực tại như là nó. Trên diễn giải khác, thực tại là “mở” hoặc “khép” trước nhận thức theo nghĩa ý thức không thể nào “nạo vét” hết nó.
  Một cách khái quát ta xem xét những quan niệm thời gian trong lịch sử nhận thức. Thời gian tuyến tính với các đặc trưng là xác định duy nhất về hiện tượng, sự vật. Ý thức xác định cái đã biết, là hiện tượng một cách tức thời, sau đó trừu tượng hóa nó trở thành quá khứ của hiện tượng. Buổi sáng, mặt trời ở phương Đông, giữa trưa mặt trời trên thiên đỉnh, buổi chiều mặt trời ở phương Tây. Ngay sau đó những xác định này trở  thành ý niệm của ý thức, được hệ thống hóa trong ký ức qua các xác định ” buổi sáng”, ”buổi chiều” lập ra thời gian một ngày. Cái gọi một ngày chính là ý niệm một  ngày của nhận thức, nó tồn tại trong một ý thức nhất định. Xác định một ngày chính là việc ý thức hồi phục những hình ảnh từ ký ức theo chiều hướng nhất định. Bản thân chiều hướng không có đảm bảo bên ngoài, nó chỉ được chấp nhận theo quan niệm chung. Ta hình dung người “loạn trí”, ký ức anh ta không hoàn toàn mất đi, chỉ có những liên hệ trước đó hoàn toàn bị phá vỡ. Với anh ta buổi sáng mặt trời có thể ở phương  Tây, buổi chiều mặt trời ở phương Đông. Trường hợp khác, với người lãng quên trí nhớ  cái gọi một ngày không tồn tại. Ghi nhận hiện tượng khi đó chỉ là xác định trong hiện tại một cách tức thời. Nó không bị đặt vào hệ thống hoặc theo phương chiều nào.
   Ta có thể hình dung quan niệm thời gian tuyến tính như trường hợp người quan sát đi vào cửa chính, xuyên qua  ngôi nhà theo đường thẳng, đi ra cửa sau. Xác định những viên gạch trên đường là duy nhất và có thể đánh dấu thứ tự một, hai, ba, bốn…
   Đối với nhận thức, xuất hiện cái có trước, có sau và trong tiến trình, tồn tại các viên gạch là duy nhất. Tuy nhiên sự việc khác đi khi người quan sát ở trần nhà. Các viên gạch xuất hiện trước ý thức là đồng thời. Hệ thống một, hai, ba, bốn …trở nên vô nghĩa. Hoặc khi người quan sát đi theo chiều hướng khác, vẫn trên cùng mặt bằng, những viên gạch nằm trong hệ thống khác so với hệ thống vừa nêu.
  Ta nhận ra trong quan niệm thời gian tuyến tính, ý thức xây dựng một hệ thống hợp lý theo nó về hiện tượng đã nhận thức. Tuy nhiên để có hệ thống đó nó đã bỏ qua những hiện tượng khác, vốn có trong những ý thức khác nhưng cùng một thực tại. Hạt giống được gieo sẽ nảy mầm, sinh trưởng, ra hoa, kết quả ở ba tháng sau đó. Đây là ví dụ về một xác định trong thời gian tuyến tính. Điều này chỉ xác thực với hạt giống duy nhất mà ý thức kinh nghiệm. Ngoài đó ra là sự trừu tượng, theo nghĩa các quá trình đã hoàn toàn lý tưởng. Thực tế hạt giống khi gieo một số không nảy mầm, một số bị  tàn phá trong quá trình sinh trưởng. Những trường hợp này thời gian ba tháng là không xảy ra, hoặc bị rút ngắn theo tồn tại của cây. Quá trình phát triển nói chung là không xác thực. Nói cách khác, cái gọi thời gian ba tháng không có thời gian tự nó.
  Quan niệm thời gian tuyến tính dẫn đến điều không thể có những hiện tường đồng thời trong nó. Với định kiến về tính thống nhất thế giới, và để đảm  bảo tính tuyến tính, ý thức buộc phải chia thực tại ra nhiều phần, là lưỡng nguyên hoặc đa nguyên. Có thể ví dụ giả thuyết sóng và hạt của ánh sáng. Nó giải thích rằng ánh sáng lúc này có tính chất sóng, lúc khác có tính chất hạt. Điều ấy tương tự việc xác định ngôi nhà lúc ba giờ là một cửa sổ, lúc chín giờ là một mảng tường. Ở đây nảy sinh mâu thuẫn với ý niệm duy nhất về ngôi nhà. Mâu thuẫn hình thức này thực chất là một giới hạn  nhận thức về thực tại. Có thể nhận ra giới hạn lớn nhất là hai ý niệm căn bản của nó trong xác định thế giới: không gian và thời gian. Trở lại hình ảnh phòng tối, có thể so sánh nguồn sáng  là ý niệm không gian, vùng được chiếu sáng là thời gian. Có thể dịch chuyển nguồn sáng khắp phòng tối, tuy nhiên do giới hạn chính nó không bao giờ xảy ra trạng thái cả phòng được chiếu sáng. Đến lúc nào đó, cộng tất cả các vùng sáng khi nguồn sáng di động là cả căn phòng ánh sáng, nhưng điều ấy chỉ là hình dung. Trạng thái cả phòng được chiếu sáng chỉ xảy ra khi đó là căn phòng ánh sáng. Trong ấy không có nguồn sáng cố định và những vách ngăn cách tương ứng các nón hoặc tháp ánh sáng.
  Ví dụ khác trong quan niệm thời gian tuyến tính là học thuyết tiến hóa. Ở đó, trước nhất là sự phân biệt của ý thức trong giới sinh vật: loài bò sát, thú bốn chân, vượn, người. Tiếp theo, ý thức đặt các đối tượng trong một quá trình phát triển với đỉnh cao nhất dành cho nó, tức sự xuất hiện nhận thức ở con người. Ta hình dung như trường hợp người quan sát từ mặt bằng, theo các bậc thang lên đến sàn nhà. Với người quan sát từ sàn nhà, đến mặt bằng, hệ thống cao thấp là đối nghịch với trường hợp đầu. Ta thấy rằng học thuyết tiến hóa chỉ là những mô tả thích hợp cho một số sự kiện, hiện  tượng theo ý thức chủ quan. Đặt quan sát chính tự  nhiên, có những tiến hóa hoặc phản tiến hóa khác. Con người mất khả năng ý thức,con người trở về loài vật, đồ vật. Ở đây không thể lấy số lượng đảm bảo chân lý. Ta có thể gieo nghìn hạt giống sau quá trình phát triển sẽ ra hoa, kết quả. Điều ấy không đồng nhất với tất cả các hạt giống được gieo dẫn đến kết quả tương tự. Hạt giống 1001 không nảy mầm chứng tỏ điều ấy. Cũng như vậy, sự kiện diệt chủng của một bộ tộc ngang như sự kiện tiến hóa từ vượn đến người, trên ý nghĩa toàn thể, chân lý.
  Ta nhận ra trong đời sống xã hội, quan niệm thời gian tuyến tính là cơ sở những ý niệm thay đổi, tiến bộ, lạc hậu, bảo thủ, cách mạng…Phương Tây là tiến bộ so với phương Đông, người da đỏ lạc hậu so với người da trắng, nhân loại đang trong làn sóng thứ ba…Ta nhận ra tính thống  kê trong những mô tả này. Đặt vào phân tích, các ý niệm phương Tây, phương Đông bộc lộ tính võ đoán của nó. Nghĩa rằng không có thực tại nào tương ứng những ý niệm vừa nêu. Các ý tưởng căn cứ theo ý niệm là bất xác. Tồn tại duy nhất của chúng là trong ý thức cá nhân nào đó. Trong ngộ nhận ấy, cá nhân và cả tập thể đi đến những hành động tương ứng, là chiến tranh, xây dựng, thủ tiêu, cải tạo… Tiến trình này tạo nên lịch sử có ý thức của nhân loại với các quan điểm, chính kiến, lý thuyết xã hội, vũ khí kèm theo. Hiển nhiên, hiện tượng nhân loại còn nằm trong những tác động khác ngoài phạm vi ý thức. Để phù hợp với hệ thống, tức rằng một tất yếu của ý thức đặt cho hiện tượng, sử học đưa nó vào cái gọi ngẫu nhiên trong lịch sử. Ta cần nhắc lại rằng, toàn thể những điều này vẫn chỉ nằm trong ý thức nào đó. Cái gọi nhân loại, lịch sử, hai ngàn năm mất đi khi anh ta quên lãng, cái chết, tức chấm dứt hiện tượng ý thức.
   Sau đây ta có nhận xét về sự bất liên tục của nhận thức trước hiện tượng, trong quan niệm thời gian tuyến tính. Với người quan sát đi theo đường thẳng, ngôi nhà đầu tiên là cửa ra vào, kết thúc là mảng tường, hoặc cửa sau nào đó. Theo tiến trình câu hỏi đặt ra là trước cửa vào ngôi nhà là gì? Cái gì có sau ngôi nhà? Câu trả lời tổng quan, theo hình dung chiều dài vô tận của nó là ý niệm vô cùng về ngôi nhà. Lưu ý sự hình thành ý niệm ở đây là vẫn nằm trong tính chất tuyến tính. Nó khác sự hình thành ý niệm ở trường hợp người quan sát  vòng quanh ngôi nhà và không có sự dừng. Trong trường hợp cụ thể, hữu hạn, ý thức tuyến tính đối diện cái gọi hư vô, sự biến mất của sự vật, hiện tượng. Con người sinh ra, lớn lên, chấm dứt ở cái chết, phía sau đó là hư vô. Hạt giống nảy mầm, cây xanh sinh trưởng trong thời gian nhất định, sau đó thì già cỗi, và cái chết…Ở đây ý thức có một phương thức hữu hiệu là hòa tan sự vật, hiện tượng vào ý niệm duy nhất là vật chất. Tuy nhiên ý niệm này không còn xác  đáng khi câu hỏi truy hồi đặt ra: vật chất là gì? Tiền vật chất là gì? Mở ngoặc rằng đây là những câu hỏi cho vật lý hiện đại và  chưa có lời đáp, theo tiến trình ấy.
  Một nhận xét khác, từ cách xác định duy nhất về hiện tượng dẫn đến tính đơn trị của nó. Trái táo là trái táo. Tô Đông Pha là Tô Đông Pha… Không thể có cùng xác định Tô Đông Pha là hậu thân Trang tử, trái táo là trái mận. Nó dẫn đến niềm tin cái sau là phát triển so với cái trước, sự hoàn thiện của tri thức, tính tiệm cận của khoa học với chân lý. Ta nhận ra ý nghĩa quan trọng của thời gian tuyến tính trong nhận thức và tạo thành thế giới. Ta chỉ thể xây dựng kế hoạch, đưa ra chuẩn mực cho tương lai trong các xác tín giá trị của nó. Một khi ý thức nhận ra chuẩn mực là đa trị, vừa tốt vừa xấu, vừa tạo thành vừa hủy diệt, con người có thể nhất quyết thực hiện theo nó? Cá nhân, hoặc cộng đồng nhất thiết đề ra đường lối phát triển khi nó nhận ra hiện tại sự bảo hòa giá trị? Cần nhận ra rằng những câu hỏi này đã thuộc về  ý thức phi tuyến. Tương ứng thế, trên đời sống xã hội những mâu thuẫn sẽ nảy sinh từ việc nhìn nhận cho đến thực hiện các giá trị.
   Quan niệm khác về thời gian gắn với tính tuần hoàn của nó. Có những ý thức khác nhau về sự tuần hoàn, ta chỉ mô tả chúng một cách khái quát. Trường hợp thứ nhất, người quan sát từ trung tâm ra cửa chính, vòng quanh ngôi nhà, trở lại trung tâm. Tiến trình này lập thành một chu kỳ. Tương ứng các cửa ra có nhiều chu kỳ trong việc khảo sát ngôi nhà. Những con đường này là định sẵn, do vậy người  quan sát có thể nhận thức hay không đều phải tuân theo nó. Vẫn trong quan niệm, đời sống cá nhân tương ứng mỗi chu kỳ. Tính chất cá thể được xác định bởi cửa ra vào của nó. Lại nữa, những gì cá nhân quan sát  trên đường đi là có thể lặp lại đối với quan sát khác có cùng cửa ra vào. Như vậy, tổng hợp từ các cửa quan sát là con số giới hạn, ý thức nhận được toàn thể ngôi nhà theo như hình dung. Chú ý rằng, trong quan niệm đây là ngôi nhà di động. Đồ vật, con người, những viên gạch đều chuyển động theo con đường sẵn. Bản thân những con đường chỉ là định sẵn về mặt hình học, nó cũng đang di động. Như vậy rằng, những gì cụ thể, xác định trong ngôi nhà không có tính duy nhất và cố định. Sự khác biệt hình thức của sự vật, hiện tượng được thống nhất ở chất liệu, cơ cấu quy định trong bên trong nó. Hai cá nhân khác nhau như quan niệm thông thường, theo nó có thể quy về một cung mạng khi cùng cửa ra vào. Như vậy rằng, hai cuộc đời có thể có những sai lệch hoặc chỉ là hình thức, hoặc tương ứng việc di chuyển khác nhau trong khi vòng quanh nhà. Tuy nhiên, nó cùng chung kết thúc và giống nhau trên những nét lớn. Ta nhận ra theo quan niệm sự giống nhau của toàn thể sự vật, hiện tượng. Hình ảnh chung nhất của ý thức là trung tâm ngôi nhà. Trung tâm này có trước và sau mọi tiến trình ghi nhận vốn có khởi đầu và kết thúc của những hiện tượng đơn lẻ. Bản thân nó không có khởi đầu, không có kết thúc. Nó được xem như bản thể vũ trụ. Tuy nhiên, theo chiều hướng quan niệm, tính chất cá nhân, sự vật cụ thể đã mất đi xác định tĩnh tại của nó. Ta không nhận được bất kỳ hình ảnh cố định nào về ngôi nhà, tức vũ trụ. Đời sống cá nhân được nâng cấp ở chỗ ý thức hòa nhập nó với Đạo, tức nhận thức và thực hiện các chuyển động.
  Vẫn trong quan niệm thời gian tuần hoàn, còn mô hình khác như sau. Ý thức hoặc không, sự vật hiện tượng ở các thời điểm chỉ là biểu hiện của một bản thể nào đó, tức cái gọi linh hồn. Trong vòng quay này, thể hiện của nó là bông hoa, trong vòng quay khác là con mèo, trong vòng quay khác nữa là con người. Như vậy, theo quan niệm, nhận thức với những giới hạn của nó ghi nhận thế giới một cách hình thức. Cái gọi bản thể chỉ thể đạt đến bằng con đường siêu nghiệm, trong những hiện tượng huyền bí. Ta nhận được theo quan niệm, mỗi vòng tròn tương ứng một kiếp thể hiện của linh hồn. Trong kiếp này, linh hồn cư ngụ ở một bông hoa, trong kiếp khác cư ngụ ở một con mèo. Theo quan niệm thông tục, thay đổi hình thức là một tiến hóa, nó phụ thuộc những gì bông hoa hoặc con mèo có thể thực hiện trong đời sống của nó. Mặt khác, nếu như triệt để theo quan niệm, trong sáng tạo của Thượng đế bông hoa như con mèo, con mèo như con người. Trên vòng tròn không có vị trí ưu tiên bất kỳ. Ưu tiên chỉ xảy ra khi có sự xuất hiện ý thức của con người: nó phân định đồ vật, động vật, con người… Như vậy rằng, trong quan niệm này những mâu thuẫn là không tránh khỏi giữa sáng tạo Thượng đế và các giá trị thế tục. Hoặc nữa ta thừa nhận sự xác thực của một con người trong thế giới như một con mèo, một bông hoa. Nói khác đi, ta thừa nhận sự phân ly triệt để giữa hồn và xác. Thế gian trong giới hạn tri kiến thực thụ là những vật thể câm nín, đông đặc và xác thịt. Chỉ có thế giới linh hồn ở phía sau, và đã vượt trên nó là đáng kể. Tuy nhiên ta không thể biết được điều ấy. Hoặc nữa ta thừa nhận có sự xác thực nhất định ở con người duyên do ý thức. Chính ý thức đối diện trước nó và là thế giới thực tại, không qua một trung gian nào khác. Theo nghĩa ấy, ý thức sẽ thực hiện Thượng đế tính của nó qua việc thông đạt những giới hạn của thế giới ý niệm trong đó có “linh hồn”, ”thể xác”. Trên hình thức diễn giải khác, đó là việc ý thức ở những giới hạn tự vượt nó để vươn đến một trí tuệ tổng quát, vô biên, vô lượng, và cũng  là vô định. Kết thúc cả phần này ta lưu ý rằng phía sau diễn giải là những quan niệm, và cả tâm niệm về thế giới của con người. Trong đó thời gian là yếu tố quan trọng cấu thành nó từ ý tưởng đến thái độ, hành vi sống tương ứng. Nói rộng hơn, đó là tất cả các nền triết học, đạo đức, tôn giáo mà con người thành lập. Ví dụ đơn giản rằng, với quan niệm thời gian tuyến tính con người đặt toàn bộ năng lực vào đời sống hiện tại. Nó phủ nhận những tồn tại đồng thời theo nó là lạc hậu hoặc đối nghịch trên trục thời gian duy nhất. Với quan niệm thời gian tuần hoàn, có thể nó xem nhẹ, hoặc hy sinh hiện tại cho một kiếp sau. Trên phương diện khác, nó chấp nhận những hiện tượng đồng thời trong ý nghĩa đa trị. Vua Trụ là hôn quân, song vua Trụ còn là con trời. Đời sống bất hạnh của một người Ky tô giáo còn là những thử thách từ Chúa. Vẫn hiện tượng ấy, với quan niệm thời gian tuyến tính, nó quy ngược về “nguồn gốc”, rằng bất hạnh là do những bất công trong xã hội. Rằng, giai cấp phong kiến đang  thống trị người nông dân… Và như thế, nó cách mạng để thay đổi quan hệ, thiết lập một xã hội mới công bằng và hạnh phúc như hình dung của nó. Chú ý rằng, ta đang mô tả những sự kiện thực, không xem xét ý nghĩa chân lý của chúng.
      Trên quan điểm trình bày, ta chỉ xem xét thế giới như là chính nó. Đây là một tiến trình nhận thức không mục đích trước và kể cả không áp đặt. Tuy nhiên, ta cần lưu ý rằng nếu như đời sống có một ý nghĩa, nó không nằm ngoài việc thực hiện toàn bộ năng lực của nó trong phạm vi từng ý thức. Từ bỏ tất cả các quan niệm thời gian, ý thức thể nhập vào những sự kiện sống. Ta nhận ra khi đó vô số trạng thái chuyển biến và bất tận. Có thể hình dung sự thể nhập này như hành vi chơi đàn của nghệ sĩ. Ý thức duy nhất còn lại, và có thể là sự nhạy bén, linh hoạt. Nó huy động toàn thể thân, tâm, ý của một con người hợp nhất với cây đàn như một độc thể duy nhất vô nhị. Từ đó là những âm thanh sáng tạo…

 









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét