Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2016

THÊ GIOI- COI Y

2- THẾ GIỚI

  
   Tiến trình diễn giải đặt trên cơ sở thực tế rằng ở cùng một trình độ, con người có thể trao nhau những quan sát, ý tưởng  thông qua ngôn ngữ. Phía sau ngôn ngữ là những ý niệm mà các bên ngầm thừa nhận sự giống nhau về cách hiểu. Cả ngôn ngữ và ý niệm không phải là thực tại, do vậy ta cần chú ý tính phương tiện của nó trong trình bày và tiếp nhận. Sau đó, để thuận tiện trong việc diễn giải, ta cố định một chủ thể quan sát theo nhân xưng thông lệ: tôi. Trong trao đổi văn bản giữa người viết và người đọc, cái tôi này đã là một  ý niệm trong ý thức người đọc. Như vậy, sự trao đổi giữa hai ý thức trở thành suy tư của một ý thức. Theo dõi tiến trình diễn giải chính là  hoạt động của ý thức đó, đi từ ý niệm này đến ý niệm khác. Nếu như mục đích người viết đạt được là trình bày thực tại, cái đang là, thực tại ấy thể lộ trước ý thức người đọc. Nói cách khác, cái Ta đang tự thể lộ.
  Giả định có một cuốn sách đặt trên bàn trong hai quan sát: tôi và Đalămbe. Trước khi có mặt, với tôi cuốn sách chưa hiện thể, tuy nhiên nó đã hiện thể trước Đalămbe. Khi tôi đi khỏi, với tôi cuốn sách không còn hiện thể, tuy nhiên nó vẫn còn hiện thể trước Đalămbe. Ta thấy qua sự kiện, cuốn sách chung là hai hiện thể khác nhau trước hai chứng thể. Có bao nhiêu chứng thể là bấy nhiêu hiện thể. Các hiện thể này là khác biệt theo điều kiện quan sát  riêng của  từng chứng thể. Không có chứng thể sẽ không có  hiện thể. Cuốn sách, lọ hoa, ngôi nhà, những con người, đường phố… là những hiện thể trong một quan sát nào đó. Nếu như, không có những chứng thể nhất định này, những đối tượng vừa nêu chỉ là các ý niệm trong ý thức người viết khi viết, và sau đó ý thức người đọc khi đọc.
  Ta hiểu rằng chứng thể có thể là con người hoặc con vật. Sau mở rộng, ta tìm xem những gì xảy ra trong quan hệ hiện thể và chứng thể. Với con mọt, cuốn sách là vật có thể ăn được. Với tôi, người vừa quan sát, cuốn sách có bìa xanh với nhan đề Khế  ước xã hội. Với Đalămbe, người đã đọc xong, trong cuốn sách là những ý tưởng của Ruxô về xã hội. Theo từng chứng thể, có những thể tính khác nhau xuất hiện là: vật ăn được, hình thức, nội dung cuốn sách. Ta thấy rằng, trong tương quan hiện thể và chứng thể thể tính xuất hiện. Không thể đồng nhất thể tính với hiện thể, hoặc chứng thể vì xác định thực tế của nó là một sự kiện, nằm trong quan hệ chứng thể và hiện thể. Trên phương diện này, khi sự kiện đã xảy ra, thể tính đồng nhất với vật thể cuốn sách. Trên phương diện khác, nó trở thành ý niệm trong tôi, hoặc Đalămbe về màu sắc, độ dày mỏng do chứng thể đưa ra, tức sự xác định, là đưa ra những ý niệm về một sự kiện đã xảy ra và chấm dứt.
  Điều ngược lại, chứng thể chỉ là chứng thể trước hiện thể nào đó. Trong một phạm vi hẹp,  cá nhân chỉ xác định theo những đối tượng ở ngoài nó. Người này đi trên đường, họa sĩ kia đang vẽ, những đứa bé nô đùa… xác định Đalămbe là Đalămbe không có nội dung, và như vô nghĩa. Ý nghĩa chỉ đem lại khi xác định Đalămbe trong phòng làm việc, Đalămbe đi dạo, Đalămbe là nhà vật lý. Tôi xác định bằng các hiện thể chung quanh cái tôi đó. Tôi uống ly trà. Tôi đọc một cuốn sách. Tôi đang quan sát mọi người. Trong trường nhìn chủ thể, nó là chứng thể trước các hiện thể. Trong trường nhìn bên ngoài, hiển nhiên nó là một hiện thể bên những hiện thể khác. Khi ấy, hiện thể của nó gắn với chứng thể nào đó, là người quan sát nó.
  Tổng hợp hiện thể và chứng thể là một thế giới duy nhất. Tôi, cái bàn, lọ hoa, những con người nằm trong quan sát lập thành một thế giới mà trung tâm chính là cái tôi đó. Vẫn những đối tượng đó, là hiện thể trước chứng thể nào khác, lập thành một trung tâm mới. Không thể đồng nhất hai thế giới vừa thành lập này. Lại nữa, quan hệ giữa hai hoặc nhiều thế giới không thể biểu thị qua bất kỳ quan hệ mà con người từng xác định: nhân quả, tâm lý, vật lý… Chúng tồn tại bên nhau và độc lập lẫn nhau. Nếu như đưa thêm một người mù vào chung phòng, cuốn sách với anh ta là cái hình hộp. Giữa anh ta và cuốn sách lập thành một thế giới khác với thế giới của tôi, Đalămbe và con mọt. Những thế giới này đang xảy ra. Không thể có một hình dung về quan hệ giữa chúng theo các ý niệm con người từng có. Xem thế giới là một sự kiện đã xảy ra, biểu thị bằng một chấm đen. Trong quan sát của người thứ năm, biểu trưng bằng một trang giấy, ta có thể đánh dấu bốn chấm đen khác nhau trên trang giấy ấy. Nghĩa rằng, ngoài thế giới người thứ năm đang thiết lập với các đối tượng, anh ta có thể hình dung bốn thế giới khác nhau bên cạnh. Ta chú ý, sự thấy bốn thế giới kia là hình dung, không chính bằng bốn thế giới ấy. Ở đây không phải là phép cộng bốn thế giới. Tương tự việc người ấy có thể quan sát ba người còn lại nhưng không thể có cái nhìn của người mù.
  Ta thấy rằng, phân biệt hiện thể và chứng thể khi có một quan sát, tức một ý thức đang hướng đến những đối tượng trước nó. Quan sát bên ngoài chỉ thể ghi nhận hiện tượng như một sự việc nhưng không thể kết luận về mọi thể tính xuất hiện trong đó. Khi ấy, ta đã đưa ý niệm về sự việc đã xảy ra, điều này là bất xác. Nếu như ở đó không có một ý thức đang ghi nhận, ta thấy sự đồng nhất giữa hiện thể và chứng thể. Tuy nhiên sự đồng nhất ấy đã qua hình dung của quan sát bên ngoài, tức chứng thể thứ hai. Lại nữa, khi ý thức tại đó có ý niệm sự đồng nhất, sự đồng nhất đã bị phá vỡ. Tương tự rằng, ý thức về việc ngủ đã không còn là việc ngủ.Trong trường nhìn thứ hai, khi đó hiện tượng đang là ý niệm đồng nhất, nó nằm ngay nơi ý thức của chứng thể ban đầu.
  Một khi ý thức xuất hiện, tình trạng đồng nhất bị phá vỡ. Lúc bây giờ, ý thức, tức cá nhân nào đó là trung tâm thế giới chung quanh nó: đồ vật, ngôi nhà, con người, công viên, mặt trăng, mặt trời… Nói chung, đó là thế giới mà con người thường hay nhắc đến. Quan hệ này là đồng thời bằng việc xác định tức khắc của ý thức: chiếc lá xanh, một con sông, mặt trời tỏa sáng… Nếu như ý thức mất đi, con người ngủ, “cái chết”, thế giới ở đó lại rơi vào tình trạng đồng nhất. Nhận thấy khác rằng, một khi ý thức lưu lại những quan sát, cả tính đồng nhất và đồng thời ở đó cũng bị phá vỡ. Lúc bây giờ, ý thức hoạt động theo những ý niệm của nó, không còn là một liên hệ trực tiếp với đối tượng. Nhân đây, ta còn chú ý rằng toàn thể đời sống con người xây dựng trên sự phá vỡ này.Nói rộng hơn, tiến trình văn minh cũng được đặt trên nền tảng đó.
  Trạng thái đồng nhất, hay thực tại, là không còn hiện thể và chứng thể bất kỳ. Hiển nhiên, khi ấy không còn ý thức nào hoạt động theo các tiến trình thông lệ. Các trung tâm không còn tồn tại. Các chấm đen trên trang giấy mất đi, tức trong quan sát bên ngoài cái nhận được là trang giấy trắng.Lại chú ý, khả năng ý thức không mất đi ở đó. Duy có quan sát không cố định và giới hạn trước bất kỳ đối tượng của nó. Nói khác đi, đó là một Sự Thấy.
  Như vậy, cái gọi thế giới như cách hiểu thông lệ thực chất là một ý niệm nhầm lẫn. Chỉ thể nói như thực tế hiện tượng, thế giới của một ai đó. Cả khi ấy, ta chỉ thể hình dung nhưng không đạt đến chính nó. Có bao nhiêu cá nhân là bấy nhiêu thế giới đã tạo thành. Hoặc có thể trở lại tình trạng đồng nhất. Số thế giới này bất định khi ta tìm cách xác định trên bất kỳ phương diện. Ta chỉ thể đánh dấu các thế giới ấy khi nó xuất hiện như những ghi nhận hình thức. Suy tư hoặc hệ thống nó, lập tức ta đã rơi vào các ý niệm trong ý thức bản thân. Cũng thể hình dung mỗi thế giới như một vật thể kín, đông đặc. Các ý thức bên ngoài không thể rọi sáng nó. Các thế giới tồn tại độc lập với thế giới bên cạnh. Khởi nguyên của hiện tượng là trạng thái đồng nhất giữa ý thức và đối tượng nó hướng đến. Dĩ nhiên sự mất đi là việc trở lại trạng thái đồng nhất này.
  Sự kiện cụ thể rằng, đánh giá về ai đó chính là ý thức ở ta tạo ra sự gián cánh từ nó đến đối tượng. Không phải là ý thức đang xem xét ai đó, như chính người đó. Trên phương diện này, từ sự tạo thành và độc lập của mỗi thế giới, chủ thể là thượng đế trong thế giới của nó. Chủ thể toàn quyền trong thế giới do nó thiết lập. Mọi sự thay đổi chính là nó đang tự thay đổi những trạng thái, cơ cấu chính nó. Không so sánh các trạng thái, không phân ly nó thành thực tại và những ý niệm, không có gì thay đổi và biến mất. So sánh đơn giản rằng khi chủ nhân ngôi nhà thay đổi những đồ vật bên trong, không thể xem quyền sở hữu của chủ nhân đã mất đi. Trên phương diện khác, về toàn thể là ngôi nhà ấy không đổi theo mọi cách trang trí nội thất. Thay đổi duy nhất có tính toàn thể là chủ nhân rời bỏ nó. Lại nữa, vì ý thức chủ nhân không phải là thực tại nằm ngoài sự kiện, nó lập thành sự kiện sở hữu, từ bỏ thực thụ khi chỉ nhân hoàn toàn quên lãng sự việc. Nếu không, ngôi nhà vẫn còn là  một hiện diện trong ý thức người đó. Có thể tiếp tục rọi sáng thế giới như sau. Trước nhất có một khả năng ý thức nào đó. Theo ý thức thường là giới hạn này, tình trạng đồng nhất bị phá vỡ. Tiếp đó, cá nhân xuất hiện trong việc ý thức ghi nhận sự có mặt, hình thức, phân biệt nó với các đối tượng còn lại. Giả định hiện tượng có nhiều ý thức, sự xuất hiện các cá nhân này là như nhau. Hiện tượng đang là các hiện thể trước nhiều chứng thể, làm những thế giới khác nhau. Có thể nói rằng, cá nhân trong ý thức ở đó và các ý thức khác là như nhau. Nó trở nên khác biệt theo ngộ nhận với những trường hợp sau. Ý thức định vị nó trên một hiện thể, là thể xác, như cái tôi nhất định. Như đã thấy sự đồng thời giữa ý thức và thế giới, định vị này có thể đặt trên bất kỳ đối tượng, là những hiện thể khác ”đồ vật”, “ngôi nhà”, “người khác”… Các ngoặc kép biểu thị ta đã sử dụng ngôn ngữ, ý niệm để chỉ về thế giới vô ngôn, vô niệm. Trên phương diện khác, ta đang trỏ vào thực tại từ những cơ sở của ký ức, vốn đã mang tính phân biệt và phi thực tại. Trở lại, do sự tạo thành nó, các định vị này là như nhau. Ta có thể nói về bản thân tạo thành theo nhận thức thông lệ như là một ngôi nhà, người khác, đối tượng bất kỳ. Ngộ nhận tiếp theo là, sau khi định vị trên hiện thể duy nhất là thể xác, ý thức tiếp tục tách rời hiện thể. Từ ấy, nó triển khai những ý niệm thông qua cố định một ý niệm: cái tôi. Tôi là người hữu thần, tôi là nhà khoa học, tôi là một viên chức, tôi sinh năm… Như bất kỳ ý niệm, cái tôi này là phi thực tại, bất kể mọi triển khai và liên hệ của nó. Ta có thể tăng lên vô số xác định như trên, tuy nhiên không vì thế cái tôi trở nên xác thực. Trở lại sự xuất hiện cá nhân như là nhiều hiện thể trước nhiều chứng thể. Ta thấy rằng, từ sự đồng nhất xảy ra hiện tượng phân tán những hiện thể khác nhau. Tôi đang ở bản thân và tôi ở nơi người khác. Những cái tôi này, vốn là các hiện thể khác nhau, được cung cấp cho những lịch sử ý niệm khác nhau. Nghĩa rằng, các hiện thể đã có những cuộc đời riêng biệt theo từng ý thức.Những cái tôi đó thành lập qua những lần gặp gỡ, quan sát, trao đổi giữa các chứng thể. Ví dụ rằng, theo ý niệm thông lệ, cái tôi xác định nó là một người duy vật, có tài sản, học thức.Trong một xác định khác, nó là người láng giềng vừa làm quen. Quan sát khác nữa nói rằng nó là người da trắng, tóc dài. Để ý rằng, những cái tôi này trước hết là một hiện tượng, sau đó với sự xuất hiện của nhiều ý thức, tức ý thức của “tôi”, ý thức “người khác”, nó là những hiện thể khác nhau, độc lập lẫn nhau. Sau đó, nó được cung cấp cho những tiểu sử, nội dung độc lập như thế. Có thể nói rằng, cá nhân không thể quyết định những phân tán của nó nơi những ý thức khác. Hợp nhất toàn bộ có thể xảy ra không phải việc nó có thể điều khiển giao tiếp của nó với người khác, hoặc quyết định những ý tưởng của người khác về nó hệt nó. Trên thực tế, điều ấy không xảy ra. Giả định trên một trang giấy ta vạch ra những đoạn thẳng khác nhau, song song, cắt nhau. Không thể gấp trang giấy theo các đoạn thẳng để chúng trùng khít lên nhau như sự hợp nhất toàn thể. Sự “hợp nhất” chỉ thể xảy ra khi các đoạn thẳng ”biến mất”. Tương ứng sự việc như các ý thức ở hiện tượng đồng thời mất đi. Ta trở lại tình trạng đồng nhất của thế giới. Tại đây, biểu đạt theo ý niệm và ngôn ngữ thông lệ, có thể nói rằng đời sống mỗi con người được xác định, triển khai và tồn tại trên nhiều phương diện khác nhau. Chẳng hạn, về hiện thể hình dáng, ngôn ngữ của tôi đối với Đalămbe đã dừng lại, không còn sự giao tiếp bất kỳ. Cái tôi này được bảo toàn hoặc rơi rớt theo trí nhớ Đalămbe. Bất kể tôi vẫn còn sống, một khi Đalămbe hoàn toàn quên lãng, cái tôi nơi đó đã chết đi. Trường hợp khác, là hiện thể với tôi, tôi đã mất đi, nhưng cái tôi vẫn tồn tại ở Đalămbe như một hình ảnh, hoặc như một sự tác động về tư tưởng. Có một Khổng tử ở Khổng tử đã mất đi nhưng vô số Khổng tử ở nơi khác vẫn tồn tại. Như ngôn ngữ thường gọi, đó là những môn sinh Khổng tử. Vì rằng, vô số Khổng tử là như nhau về mặt tạo thành, từ đó, sau cái mất của một Khổng tử không thể quy đồng những Khổng tử đã mất. Trên phương diện khác, cái chết của một con người kéo theo vô số cái chết của những người khác được thiết lập bởi nó. Cái chết không chỉ chấm dứt hiện tượng cá nhân mà còn là chấm dứt  một thế giới. Không chỉ người hàng xóm nào đó mà chính cái tôi đã chết đi theo cái chết đối tượng vừa nêu. Cá nhân bỏ qua sự kiện hiển nhiên này vì ý thức ở đó đã cố định trên hiện thể duy nhất, là cái tôi đang quan sát cái chết của “người khác”. Tồn tại trong thế giới chính nó và những thế giới còn lại, do vậy, cái chết của tôi và cái chết của một người nào đó, là bạn bè, người thân là hoàn toàn như nhau.
  Có thể minh họa tiến trình diễn giải bằng hình ảnh sau. Giả định một phòng tối, tức  trạng thái đồng nhất hay là thực tại.Hãy đem một ngọn đèn vào phòng tối đó, tức hiện tượng ý thức. Trong ánh sáng cái bàn, lọ hoa, giá sách đồng thời xuất hiện. Do thời điểm đưa ngọn đèn và vị trí của nó, các hiện thể vừa nêu là duy nhất theo từng nguồn sáng. Với bao nhiêu ngọn đèn là chừng ấy lọ hoa, giá sách. Để ý rằng chính là khi có nhiều ngọn đèn việc xác định các hiện thể duy nhất theo từng nguồn sáng  là khó khăn. Trên thực tế, ý thức đồng nhất các hiện thể này là một. Tuy nhiên đó là một ngộ nhận. Chú ý khác rằng, các lọ hoa, giá sách, cái bàn chỉ là hiện thể theo nguồn sáng nào đó. Nếu không có nguồn sáng, thực tại là trạng thái đồng nhất. Ý thức thông thường khẳng định rằng có sự xác định, tồn tại cái bàn, lọ hoa, giá sách từ trước đó. Cũng vậy, sau khi tắt hết tất cả ngọn đèn, ý thức khẳng định những đồ vật còn tồn  tại trong đó. Thực chất đó đã là những ý niệm “cái bàn”, ”lọ hoa”, có trước và hoặc sau hiện tượng. Tức rằng, hiện thể đã là những ý niệm trừu tượng trong nhận thức, nó không có thực tại tương  ứng nào ở lúc đó.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét