Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2016

Ý THỨC- CÕI Ý

3- Ý THỨC


   Xem xét về ý thức sẽ rơi vào hai trường hợp sau. Trước hết, đó là sự tiếp xúc bên ngoài đối với ý thức. Qua lời nói, hoặc chữ viết ta biết đến ý thức ở sự vật thể hóa của nó. Sự vật hóa này là chính là ý niệm, tư tưởng. Từ một ý thức trong suốt, vô hạn nó đã biểu lộ ra ở vật thể hữu hạn. Sự xem xét như thế là ở bên ngoài, và cũng là phía sau nó. Nói khác rằng, ta đang quan sát thân xác, tiểu sử của ý thức. Quan sát này chưa ngang tầm với nó. Nếu như đó là một quan sát không tiền niệm, khuynh hướng, ta nhận được một tư tưởng, hoặc chỉ là ý niệm mà ý thức trước đã trải qua. Cũng tức rằng, từ ý thức quan sát đến ý thức kia có một thời gian. Có một thế giới đã và đang thành lập ở đó.
   Mở rộng cho sự quan sát nhiều ý thức trong trường hợp này. Ta nhận được, từ một ý niệm cho đến tư tưởng, giáo điều, triết thuyết. Toàn thể những điều ấy vẫn thường xảy ra ngộ nhận đồng hóa với bản thân quan sát. Đây là điều khai sinh cá nhân, bởi sự định xứ ý thức trước đối tượng của nó, tức thể xác. Sau đó, ý thức biểu thị như các nền văn hóa, lịch sử… Sự xác thực của một và cũng là nhiều thế giới như thế, rốt ráo cũng chỉ là ý thức đang triển khai nó qua những ý niệm, tư tưởng. Chấm dứt sự triển khai, nó ngộ nhận rằng ở đó có một cái chết. Mở ngoặc ở đây, như vậy, cái chết là đang xảy ra trên từng khoảnh khắc. Ta sẽ còn trở lại với xác định này.
   Ta cũng nhận ra khi xem xét đến đây, sự đối diện của ý thức trước thế giới. Cũng tức rằng sự phản tỉnh của ý thức trước toàn thể ký ức của nó. Ký ức này chính là những ý niệm, tư tưởng, những xác định cố định, và sau hết những cách nghĩ. Nhận thức này mở ra tự do nội tại giữa ý thức và ký ức. Ở đây ta  đừng đặt câu hỏi tự do giữa “tôi” và “người khác”, “cá nhân” và “xã hội”, bởi lẽ nó chỉ là những ý niệm. Một câu hỏi như thế còn đặt ra chỉ là sự ngộ nhận tiếp tục của ý thức. Nó lại rơi vào vòng luẩn quẩn do nó, và từ nó.
   Cũng cần thấy rằng, vẫn từ kết quả quan sát, nảy sinh những quan niệm sau. Tự do giữa ý thức và tiền niệm của nó được quy tiếp việc ý thức “xóa bỏ” các ý niệm của nó. Tức rằng nó kêu gọi việc lãng quên ký ức. Khi đó là một sự kiện đã mang tính áp đặt. Tự do ý thức ở chỗ thông đạt toàn thể những ý niệm của nó. Không ý niệm, không tư tưởng đã là sự vắng lặng, không thế giới. Ở đó không có gì để nói, và kể cả ý thức không có đường vào.
   Vẫn cùng trường hợp nhưng với quan sát không có khuynh hướng, tư tưởng. Biểu lộ đơn giản là việc nghe, xem với thái độ nào đó. Không những tư tưởng trước mất đi sự nguyên vẹn vốn có của nó,  ý thức đang tiến hành quan sát trong tình trạng phân tán. Đối thoại sẽ nảy sinh trong trường hợp này. Ở đó xảy ra ngộ nhận từ hai ý thức. Nó tưởng rằng có hai mâu thuẫn, từ hai ký ức. Tuy nhiên hai tư tưởng đó là trong cùng một ý thức không nhận ra cơ cấu của nó. Nhận ra cơ cấu là chấm dứt mâu thuẫn. Ta trở lại trường hợp đầu.
  Và, ta xem xét trường hợp ý thức thể nghiệm chính nó. Trường hợp đầu, hình dung ta đang khảo sát ngôi nhà mà chủ nhân, tức ý thức đã bỏ đi. Tiếp xúc trực tiếp chỉ thể xảy ra khi ý thức thể nghiệm chính nó. Và nữa, sự thể nghiệm không qua bất kỳ phương tiện của nó, tức các xác định bằng tư tưởng, khuynh hướng. Sự thể nghiệm bằng những phương tiện như thế, rốt ráo là việc đồng hóa nguồn sáng với hình bóng, vật thể. Nó không cho ta chính nguồn sáng  đó. Cũng thể nói rằng, sự thể nghiệm nó là chính nó, tức ý thức. Ở đây không có sự nghe, thấy, tư tưởng và người tư tưởng, xác định, khẳng định, phủ định… Ở đây không có bất kỳ ý niệm tức là, hay là, hoặc là, như là để xác định…

     Đang là, tức vừa qua một sự tịch lặng. Không có bất kỳ thế giới thành lập ở đó. Đó là sự bất động của ý thức. Chuyển động thường nhật với nhu cầu xác định, những chiều hướng quen thuộc của ý thức đã bị đình chỉ. Đó là sự định thần, nói theo cách khác. Lại thấy, ở thời điểm đó vốn không bị giới hạn chính là không thời gian. Nó thường hằng, không có sự xác định và mọi giới hạn. Nó không có tên gọi, điều đó là dĩ nhiên.
   Để tiếp tục, ta vẫn phải dùng đến ý niệm, ngôn ngữ để biểu đạt. Lúc này, trạng thái ý thức vừa thể nghiệm đã nằm trong xác định của ý thức. Tức rằng, ta đang tư tưởng về nó, thời gian đã được tạo thành với những giới hạn không thể tránh khỏi. Trạng thái bất động của ý thức, cùng với đó sự thể lộ thực tại. Ta chú ý, sự bất động này chỉ cho việc chấm dứt những hoạt động của ý thức qua ký ức, những khuynh hướng quen thuộc của nó. Không có nghĩa ý thức đã chấm dứt ở đó.
   Để đơn giản, ta hình dung như sau. Có một quan sát cho ý thức nào đó, tức “người đối diện”. Ta có thể không biết người đó nghĩ gì, có những ý niệm nào phát khởi nơi đó. Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận hay thừa nhận ý thức này. Điều đang có là một hình dung của ý thức từ ta về nó. Hình dung này chính là một sự Thấy.
   Lại chú ý rằng, sự Thấy, tức sự định thần là đồng thời thực tại…Xác định nguồn gốc, quy về một bản thể, là vật chất hay tinh thần cho thực tại là điều vô nghĩa. Nói rõ hơn, từ thực tại khởi thủy là nhu cầu xác định của ý thức. Nó đặt ra câu hỏi: thực tại  này là gì? Có một ý niệm đã phát khởi, tức “thực tại”. Sau đó, ý niệm được ý thức xác định theo một tiến trình ý thức nào đó. Tư tưởng đã tạo thành. Câu trả lời nếu có chính là sự nối tiếp tư tưởng. Ý thức có một tư tưởng, song sự đồng nhất với thực tại đã bị phá vỡ. Theo dõi tiến trình, ta không có nhận xét về tính đúng, sai của tư tưởng. Bởi lẽ, những nhận xét như thế là tiếp tục tư tưởng. Cơ sở, và kết thúc của nó, không gì khác hơn những ý niệm.
   Thực tại này là “hòn đá”, ”cây xanh”, “con người”, “thế giới”…Các ngoặc kép biểu thị việc sử dụng ngôn từ, ý niệm giới hạn và cố định để trỏ về nó, vốn không phải là ngôn từ
và giới hạn bất kỳ. Cố gắng diễn đạt cho nó là vô biên, vô lượng, vô sinh, vô diệt… Tuy nhiên, các xác định biên, lượng, sinh  diệt… là do ý thức giới hạn. Các phủ nhận, do vậy, là phủ nhận chính những ý niệm của ý thức. Không nên tiếp tục ngộ nhận rằng, có một tự tính thực tại là vô biên, vô lượng, vô sinh, vô diệt. Tương ứng thực tại là khoảnh  khắc vô niệm của ý thức.
   Ý thức kinh nghiệm ngộ nhận rằng ”hòn đá”, “cây xanh”, “con người”… là những đối tượng có thực. Do vậy, nó không nhận ra thực tại đang là trước nó. Khởi từ ngộ nhận nó tìm đến một bản thể ẩn sau hiện tượng. Theo chiều hướng khác, nó tìm đến một nguyên lý quyết định cơ cấu, vận động của hiện tượng, thành lập nên thế giới. Nó xem rằng có một lịch sử nhân loại, lịch sử vũ trụ tính bằng ngàn năm, triệu năm… Nhận ra tính bất xác của một ý niệm đơn giản hơn một  thế giới ý niệm diễn dịch qua vô số tư tưởng. Tuy nhiên, thế giới ý niệm xét ra cũng chính là một ý niệm đang nảy sinh trong ý thức nào đó. Ý thức không biết rằng thời gian đang nảy sinh theo nó, vì nhu cầu xác định từ nó. Dĩ nhiên, thời gian này là có thể chấm dứt.
   Ta cũng nhận ra một trong những trò đuổi bắt khác của ý thức. Sự phát khởi ý niệm năng lượng của nó giới hạn theo những ý niệm khác: là cơ năng, nhiệt năng, quang năng… Sau đó, nó thực hiện sự hợp nhất, tức định luật bảo toàn năng lượng. Ta nhận ra những cái gọi cơ năng, nhiệt năng, quang năng…là những ý niệm giới hạn của nhận thức. Nó tưởng rằng có các đối tượng và quá trình thực. Chẳng hạn “củi đốt”,  “ngọn lửa”,  “cháy”,  “trái đất”, “mặt trời”…Một khi nhận ra cái gọi củi lửa, mặt trời, trái đất chưa bao giờ là những hiện tượng riêng biệt thực hữu. Cũng vậy, chưa từng có bất kỳ quá trình củi cháy nên lửa, trái đất quay quanh mặt  trời…Năng lượng sẽ bảo toàn với cái gì?
   Ta lại chỉ ra một dạng khác của quan niệm quá trình. Ý thức nhận ra thực tại là “chứng”, “ngộ”, như nó xác định. Từ ấy nó rơi vào việc phân chia các tầm mức ý thức: cao, thấp, mê, ngộ…Hiển nhiên, việc phân chia này là một tư tưởng của ý thức. Cái gọi “chứng” xảy ra khi có một ý thức định vị “chứng” và đối tượng “được chứng”. Tức  rằng ở đây vẫn có sự phân hai và diễn dịch. Diễn ngôn khác, ý thức đang vật hóa  ở  những điểm tế nhị của nó.
   Và chấm dứt xem xét, ta nhận ra sự phân biệt của chính xem xét. Ta đã sử dụng các ý niệm “này” và “ khác” cho quá trình diễn giải. Cũng như thế, là sự phân biệt một và nhiều ý thức. Ta đã bỏ qua định tính nhưng sự định lượng vẫn còn lại. Vượt trên mọi phân biệt, kể cả xác định là ý thức thể nghiệm chính nó, tức sự kiện vô niệm. Đó là sự im lặng.

                                   Hoài Ân, tháng 10, năm 1996


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét