3- Ý THỨC
Xem xét về ý thức sẽ rơi vào hai trường hợp sau. Trước hết,
đó là sự tiếp xúc bên ngoài đối với ý thức. Qua lời nói, hoặc chữ
viết ta biết đến ý thức ở sự vật thể hóa của nó. Sự vật hóa này
là chính là ý niệm, tư tưởng. Từ một ý thức trong suốt, vô hạn nó
đã biểu lộ ra ở vật thể hữu hạn. Sự xem xét như thế là ở bên
ngoài, và cũng là phía sau nó. Nói khác rằng, ta đang quan sát thân
xác, tiểu sử của ý thức. Quan sát này chưa ngang tầm với nó. Nếu như
đó là một quan sát không tiền niệm, khuynh hướng, ta nhận được một tư
tưởng, hoặc chỉ là ý niệm mà ý thức trước đã trải qua. Cũng tức
rằng, từ ý thức quan sát đến ý thức kia có một thời gian. Có một
thế giới đã và đang thành lập ở đó.
Mở rộng cho sự quan sát nhiều ý thức trong trường hợp này. Ta
nhận được, từ một ý niệm cho đến tư tưởng, giáo điều, triết thuyết.
Toàn thể những điều ấy vẫn thường xảy ra ngộ nhận đồng hóa với
bản thân quan sát. Đây là điều khai sinh cá nhân, bởi sự định xứ ý
thức trước đối tượng của nó, tức thể xác. Sau đó, ý thức biểu thị
như các nền văn hóa, lịch sử… Sự xác thực của một và cũng là
nhiều thế giới như thế, rốt ráo cũng chỉ là ý thức đang triển khai
nó qua những ý niệm, tư tưởng. Chấm dứt sự triển khai, nó ngộ nhận
rằng ở đó có một cái chết. Mở ngoặc ở đây, như vậy, cái chết là
đang xảy ra trên từng khoảnh khắc. Ta sẽ còn trở lại với xác định
này.
Ta cũng nhận ra khi xem xét đến đây, sự đối diện của ý thức
trước thế giới. Cũng tức rằng sự phản tỉnh của ý thức trước toàn
thể ký ức của nó. Ký ức này chính là những ý niệm, tư tưởng,
những xác định cố định, và sau hết những cách nghĩ. Nhận thức này
mở ra tự do nội tại giữa ý thức và ký ức. Ở đây ta đừng đặt câu hỏi tự do giữa “tôi” và
“người khác”, “cá nhân” và “xã hội”, bởi lẽ nó chỉ là những ý
niệm. Một câu hỏi như thế còn đặt ra chỉ là sự ngộ nhận tiếp tục
của ý thức. Nó lại rơi vào vòng luẩn quẩn do nó, và từ nó.
Cũng cần thấy rằng, vẫn từ kết quả quan sát, nảy sinh những
quan niệm sau. Tự do giữa ý thức và tiền niệm của nó được quy tiếp
việc ý thức “xóa bỏ” các ý niệm của nó. Tức rằng nó kêu gọi việc
lãng quên ký ức. Khi đó là một sự kiện đã mang tính áp đặt. Tự do
ý thức ở chỗ thông đạt toàn thể những ý niệm của nó. Không ý
niệm, không tư tưởng đã là sự vắng lặng, không thế giới. Ở đó không
có gì để nói, và kể cả ý thức không có đường vào.
Vẫn cùng trường hợp nhưng với quan sát không có khuynh hướng, tư
tưởng. Biểu lộ đơn giản là việc nghe, xem với thái độ nào đó. Không
những tư tưởng trước mất đi sự nguyên vẹn vốn có của nó, ý thức đang tiến hành quan sát trong
tình trạng phân tán. Đối thoại sẽ nảy sinh trong trường hợp này. Ở
đó xảy ra ngộ nhận từ hai ý thức. Nó tưởng rằng có hai mâu thuẫn,
từ hai ký ức. Tuy nhiên hai tư tưởng đó là trong cùng một ý thức
không nhận ra cơ cấu của nó. Nhận ra cơ cấu là chấm dứt mâu thuẫn. Ta
trở lại trường hợp đầu.
Và, ta xem xét trường hợp ý thức thể nghiệm chính nó. Trường
hợp đầu, hình dung ta đang khảo sát ngôi nhà mà chủ nhân, tức ý thức
đã bỏ đi. Tiếp xúc trực tiếp chỉ thể xảy ra khi ý thức thể nghiệm
chính nó. Và nữa, sự thể nghiệm không qua bất kỳ phương tiện của
nó, tức các xác định bằng tư tưởng, khuynh hướng. Sự thể nghiệm
bằng những phương tiện như thế, rốt ráo là việc đồng hóa nguồn sáng
với hình bóng, vật thể. Nó không cho ta chính nguồn sáng đó. Cũng thể nói rằng, sự thể nghiệm
nó là chính nó, tức ý thức. Ở đây không có sự nghe, thấy, tư tưởng
và người tư tưởng, xác định, khẳng định, phủ định… Ở đây không có
bất kỳ ý niệm tức là, hay là, hoặc là, như là để xác định…
Đang là, tức vừa qua một sự tịch
lặng. Không có bất kỳ thế giới thành lập ở đó. Đó là sự bất động
của ý thức. Chuyển động thường nhật với nhu cầu xác định, những
chiều hướng quen thuộc của ý thức đã bị đình chỉ. Đó là sự định
thần, nói theo cách khác. Lại thấy, ở thời điểm đó vốn không bị
giới hạn chính là không thời gian. Nó thường hằng, không có sự xác
định và mọi giới hạn. Nó không có tên gọi, điều đó là dĩ nhiên.
Để tiếp tục, ta vẫn phải dùng đến ý niệm, ngôn ngữ để biểu
đạt. Lúc này, trạng thái ý thức vừa thể nghiệm đã nằm trong xác
định của ý thức. Tức rằng, ta đang tư tưởng về nó, thời gian đã
được tạo thành với những giới hạn không thể tránh khỏi. Trạng thái
bất động của ý thức, cùng với đó sự thể lộ thực tại. Ta chú ý,
sự bất động này chỉ cho việc chấm dứt những hoạt động của ý thức
qua ký ức, những khuynh hướng quen thuộc của nó. Không có nghĩa ý
thức đã chấm dứt ở đó.
Để đơn giản, ta hình dung như sau. Có một quan sát cho ý thức
nào đó, tức “người đối diện”. Ta có thể không biết người đó nghĩ
gì, có những ý niệm nào phát khởi nơi đó. Tuy nhiên, ta không thể
phủ nhận hay thừa nhận ý thức này. Điều đang có là một hình dung
của ý thức từ ta về nó. Hình dung này chính là một sự Thấy.
Lại chú ý rằng, sự Thấy, tức sự định thần là đồng thời
thực tại…Xác định nguồn gốc, quy về một bản thể, là vật chất hay
tinh thần cho thực tại là điều vô nghĩa. Nói rõ hơn, từ thực tại
khởi thủy là nhu cầu xác định của ý thức. Nó đặt ra câu hỏi: thực
tại này là gì? Có một ý niệm đã
phát khởi, tức “thực tại”. Sau đó, ý niệm được ý thức xác định
theo một tiến trình ý thức nào đó. Tư tưởng đã tạo thành. Câu trả
lời nếu có chính là sự nối tiếp tư tưởng. Ý thức có một tư tưởng,
song sự đồng nhất với thực tại đã bị phá vỡ. Theo dõi tiến trình,
ta không có nhận xét về tính đúng, sai của tư tưởng. Bởi lẽ, những
nhận xét như thế là tiếp tục tư tưởng. Cơ sở, và kết thúc của nó,
không gì khác hơn những ý niệm.
Thực tại này là “hòn đá”, ”cây xanh”, “con người”, “thế
giới”…Các ngoặc kép biểu thị việc sử dụng ngôn từ, ý niệm giới
hạn và cố định để trỏ về nó, vốn không phải là ngôn từ
và giới hạn bất kỳ. Cố
gắng diễn đạt cho nó là vô biên, vô lượng, vô sinh, vô diệt… Tuy nhiên,
các xác định biên, lượng, sinh
diệt… là do ý thức giới hạn. Các phủ nhận, do vậy, là phủ
nhận chính những ý niệm của ý thức. Không nên tiếp tục ngộ nhận
rằng, có một tự tính thực tại là vô biên, vô lượng, vô sinh, vô diệt.
Tương ứng thực tại là khoảnh khắc
vô niệm của ý thức.
Ý thức kinh nghiệm ngộ nhận rằng ”hòn đá”, “cây xanh”, “con
người”… là những đối tượng có thực. Do vậy, nó không nhận ra thực
tại đang là trước nó. Khởi từ ngộ nhận nó tìm đến một bản thể ẩn
sau hiện tượng. Theo chiều hướng khác, nó tìm đến một nguyên lý
quyết định cơ cấu, vận động của hiện tượng, thành lập nên thế giới.
Nó xem rằng có một lịch sử nhân loại, lịch sử vũ trụ tính bằng ngàn
năm, triệu năm… Nhận ra tính bất xác của một ý niệm đơn giản hơn
một thế giới ý niệm diễn dịch qua
vô số tư tưởng. Tuy nhiên, thế giới ý niệm xét ra cũng chính là một
ý niệm đang nảy sinh trong ý thức nào đó. Ý thức không biết rằng
thời gian đang nảy sinh theo nó, vì nhu cầu xác định từ nó. Dĩ nhiên,
thời gian này là có thể chấm dứt.
Ta cũng nhận ra một trong những trò đuổi bắt khác của ý thức.
Sự phát khởi ý niệm năng lượng của nó giới hạn theo những ý niệm
khác: là cơ năng, nhiệt năng, quang năng… Sau đó, nó thực hiện sự hợp
nhất, tức định luật bảo toàn năng lượng. Ta nhận ra những cái gọi cơ
năng, nhiệt năng, quang năng…là những ý niệm giới hạn của nhận thức.
Nó tưởng rằng có các đối tượng và quá trình thực. Chẳng hạn “củi
đốt”, “ngọn lửa”, “cháy”,
“trái đất”, “mặt trời”…Một khi nhận ra cái gọi củi lửa, mặt
trời, trái đất chưa bao giờ là những hiện tượng riêng biệt thực hữu.
Cũng vậy, chưa từng có bất kỳ quá trình củi cháy nên lửa, trái đất
quay quanh mặt trời…Năng lượng sẽ
bảo toàn với cái gì?
Ta lại chỉ ra một dạng khác của quan niệm quá trình. Ý thức
nhận ra thực tại là “chứng”, “ngộ”, như nó xác định. Từ ấy nó rơi
vào việc phân chia các tầm mức ý thức: cao, thấp, mê, ngộ…Hiển nhiên,
việc phân chia này là một tư tưởng của ý thức. Cái gọi “chứng” xảy
ra khi có một ý thức định vị “chứng” và đối tượng “được chứng”.
Tức rằng ở đây vẫn có sự phân hai
và diễn dịch. Diễn ngôn khác, ý thức đang vật hóa ở
những điểm tế nhị của nó.
Và chấm dứt xem xét, ta nhận ra sự phân biệt của chính xem
xét. Ta đã sử dụng các ý niệm “này” và “ khác” cho quá trình diễn
giải. Cũng như thế, là sự phân biệt một và nhiều ý thức. Ta đã bỏ
qua định tính nhưng sự định lượng vẫn còn lại. Vượt trên mọi phân
biệt, kể cả xác định là ý thức thể nghiệm chính nó, tức sự kiện
vô niệm. Đó là sự im lặng.
Hoài Ân, tháng 10, năm 1996
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét