13- ANPHA VÀ …
…bây giờ là một giờ trưa. Trong khi
xúc tiến việc xuất bản hãy còn những thời gian trống. Tập tùy bút
do vậy nảy sinh thêm vài trang cuối. Bắt đầu từ mùa hạ, giờ này
trời đã sang thu. Những đêm trăng sao và lại nỗi buồn da diết. Về
khuya, tiếng động của phố xá đã
lặng hẳn. Chỉ còn tiếng côn trùng …Duyên cớ gì tôi viết ra những
dòng này?
Có vài ý tưởng và quan tâm mới. Việc
biểu lộ có thể là tự nhiên trong một sự vận hành. Nếu không viết ra
chắc hẳn tôi phải tìm một người đối thoại nào đó.Nói cách khác,
viết lách là một lối ra của tâm trí.Tôi sẽ viết một cách tự nhiên
như những gì đang có trong đầu óc. Việc làm này là một cách tiết
kiệm năng lượng nhất. Lập ra một bố cục, có thể hợp lý và tiện cho
việc theo dõi của độc giả nhưng mặt khác nó không cho độc giả chứng
kiến trực tiếp một trạng thái tâm trí. Độc giả giả định đang xem
những gì ở một hậu trường. Một hình ảnh khác, thức ăn đang trong
quá trình nấu nướng….
Tôi cũng hy vọng rằng khi đến những
trang cuối này nỗi buồn sẽ chuyền
hóa hẳn!
Sự kiện đầu tiên, tôi vẫn rèn luyện
thư pháp mỗi ngày.
Tôi đang hướng
đến một phong cách nghệ thuật. Trong khi thiền định tôi trông thấy
những cái vảy rồng. Tôi không hiểu từ
đâu ra những hình tượng như thế. Và tôi quên đi. Vài ngày sau,
trong khi viết, qua một lúc tập trung tôi đột ngột nhận ra đường nét
những cái vảy rồng.
Như vậy,
khoảnh khắc khi thiền quán, ý thức có thể là đi trước so với hiện
thực của giác quan. Những hình ảnh
của thiền
quán là nằm trong một tầm sâu của thế giới thực tại. Giác quan thông
thường chưa chạm đến tầm sâu này.Nói khác đi, thế giới hiện thực là
những trạng thái biểu kiến của một tầng ngầm bên dưới. Sự chạm đến tầng ngầm này là có thể hay không
tùy thuộc vào sự quan tâm và cường độ của ý thức…
Thay vì tôi đang rèn luyện thư pháp mà
như một thầy thuốc. Khi ấy, đối
tượng sẽ là vài vị thuốc nào đó.
Thiền quán sẽ mở ra các đặc tính của dược vật. Không cần thiết
phải dùng đến lưỡi tôi vẫn cảm nhận vị ngọt, màu vàng của Ngọc
trúc.Sự thiền định đến mức sâu xa, tôi sẽ nghiệm ra công năng của
Ngọc trúc. Bổ Âm, tính mát….
Rồi, ta hãy đi tiếp một đoạn, thay vì
vị Ngọc trúc trước mặt, khi ý thức tôi nghĩ đến là có nó!...Điều
này mở ra nhiều phương diện. Về phương diện nhận thức ta đạt đến một
cái nhìn toàn thể. Ngoại vật Ngọc trúc là ở trong cái tôi đó….
Trên phương diện khác, thuộc về công
năng, ta có thể thay vì khảo sát có tính chất quy nạp mà là trực
cảm, trực nhận các đối tượng? Thay cho việc phân tích Quế chi bằng
hóa, lý…trong sự thiền quán ta có thể nhận diện màu xanh dương của
nó. Sự vận hành của quế chi trong cơ thể? Nói nhanh những điều này,
sự cảm nhận như vậy không có ý đồ thay thế các khảo sát khoa học.
Nó chỉ là một định hướng nhanh thay cho các thao tác ngoại suy…
Trạng thái tự tại là không có ý
nghĩ. Ý thức có đó nhưng nó khộng vận hành theo các thói quen
thường lệ.
Đó là sự
quán chiếu. Một khi ý thức rơi trở lại các suy
nghĩ thường
nhật sẽ có nhiều hiện tượng xảy ra. Một trong những hiện tượng đó
là cảm giác về sự cô đơn tuyệt đối. Sự cô đơn này không phải một
trạng thái bị bỏ rơi hay không còn ai thân thích. Cái cô đơn của :
Tiền
bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả…
Trong liên hệ với cái Tự tại tôi xin
hệ thống một cái nhìn trong khi đọc Krishnamurti.Hình ảnh minh họa là
những gì K nói như một tấm lưới. Điều tôi trình bày là sợi chỉ
trong tấm lưới đó. Cái Tự tại, Thiêng liêng, Siêu việt hay Vô lượng là
có đó. Nó tương tự như bầu trời hay không khí quanh mỗi con người.
Nghĩa rằng, bao giờ nó cũng ở đó. Đường đến là sự chấm dứt các ý
nghĩ thường nhật. Ý thức còn lại ở đó. Nó là một sự quán chiếu.
Trong các phương thức quán chiếu việc
quán chiếu âm thanh sẽ là phương tiện hữu hiệu. Nói như K đó là việc
lắng nghe. Trong sự lắng nghe, não có một khí cụ chống đỡ trước vô
số tác nhân bên ngoài. Sự lắng nghe đến mức độ sâu xa là không có âm
thanh. Âm thanh, những gì nghe nhận thực ra là một tình trạng dính
mắc của giác quan trước đối tượng…
Trong sự quán chiếu này,mặc nhiên hành
giả ở vào trạng thái tự tại. Sự ngự trong trạng thái này, khi tâm
trí không bị rơi ra các biên dao động của nó, sẽ là cái tự tại.
Ở đậy ta triển khai trên vài phương
diện để làm rõ thêm cái Tự tại.
Một trong những vấn đề của triết học
là nguyên nhân đầu tiên của thế
giới hiện thực. Đây là một giả đề của nhận thức. Ý niệm nguyên nhân
đầu tiên là một ý nghĩ,một sản phẩm của ý thức. Ta hình dung một
vòng
tròn khép
kín của ý thức. Nguyên nhân đầu tiên là một điểm đánh dấu của ý
thức trên vòng tròn đó. Vòng tròn này không có trong tự thể, cái tự
tại. Chân lý ở chỗ khi ý thức quán chiếu chính nó. Một trong những
hệ quả của quán chiếu là sự tiêu hủy vòng tròn này. Khi đó, cái
gọi nguyên nhân đầu tiên sẽ không còn tồn tại.
Minh họa rằng, cái gọi sáng và chiều
là có thực trong một tri nhận nào đó. Tri nhận này là thực trong
tính chất cục bộ, giả kiến của ý thức. Nó gắn với một điểm quan
sát nào đó. Trước hết đó là tính tương đối.Một quan sát ở Sài gòn
định vị là buổi chiều. Cũng trong thời điểm đó,một quan sát ở Cali
sẽ là buổi sáng.
Khi đặt quan sát trong toàn thể, chẳng
hạn gắn với mặt trời, các khái niệm sáng và chiều là không tồn
tại.
Một vấn đề khác, là bỏ ngõ như sau:
vì sao ý thức lại có tính chất định hình,định xứ? Tại sao tôi không
nhìn vào khoảng không trước mắt, mà liên tục rơi xuống hoặc bị bắt
dính bởi cái hoa, một khuôn mặt, một tiếng nói?
Tính chất định vị, vật thể này của ý
thức là một trong nhiều khả năng của nó. Tức rằng sẽ có nhiều khả
năng khác của ý thức. Ở chỗ khác đó, chẳng hạn các Đức Phật là
siêu việt? Tính chất định vị này biểu hiện cấu trúc chung của bộ
não con người với những năng lực hạn định của nó?
Sự định vị này càng bị dính chặt là
đồng nghĩa với chậm chạp, quán tính. Điều chắc chắn là trí huệ,sự
thông minh chỉ có khi ý thức tự do di chuyển trước vật thể bên
ngoài,và sau đó là các vách ngăn ý niệm bên trong nó.
Sự dính mắc, hay cơ chế định vị này,
vốn không phải sự định tâm của hành giả, có thể khắc phục.Điều này
là các quá trình tu tập…
Vẫn trong mạch Krisnamurti tôi xin trình
bày vài tiếng vọng khác. Có một thị kiến chờn vờn khó nắm bắt mà
tôi đang cố gắng thể lộ. Điều này xảy ra trong khi đọc The Ending of
Time vào lúc K đối thoại với David Bohm về vũ trụ.
Thiền quán , hiểu theo nghĩa trầm tư,
xem xét một cái gì đó. Trong trầm
tư là một sự soi sáng vào đối tượng.
Sự soi sáng
này nằm ở cấp độ bản thể, nguyên ủy. Chẳng hạn tôi đang thiền quán
một bông hoa. Không phải việc ý thức của tôi định danh đây là hoa mai,
có năm cánh,màu vàng nhạt…Những điều như vậy là ý thức tiếp diễn
chính nó một cách máy móc và nông cạn. Trong thiền quán,thoạt tiên
là các giác quan của tôi hướng về đối tượng, chỉ thuần là đối
tượng. Sự đình chỉ của ý thức với những định danh, phân loại,xếp
hạng của nó…Sau thời gian như vậy,
giữa tôi và cái hoa mai đó là một. Những gì là hương hoa,màu sắc ,
kể cả nhánh lá và gốc rễ của cây mai cũng chính là cái tôi đó.
Một trạng thái tương thông.Một sự lơ đễnh, tán tâm của tôi cùng một
tác nhân bên ngoài nào đó xâm chiếm trí não của tôi. Ngay lập tức tôi
trông thấy những cánh hoa rũ xuống…
Như vậy, qua sự soi sáng của thiền
quán, đối tượng biểu lộ hiện diện
và những khả tính của chúng. Một khi không còn sự phân biệt người
thiền quán thì hiện trạng là một
biểu lộ trong tự thể…..Nền tảng của tự thể này là cái không,
cái bất tri.Ta hãy xem một bàn tay đang cầm ly trà.Đó là một trạng
thái xuất lộ. Việc định vị, Bồ Tùng Linh đang cầm cái ly trà không
phải là thực tướng sự việc. Cái đó,chỉ là ý thức của tôi đang
tiếp diễn các hiểu biết từ trước
của nó. Nó là một kiến thức đóng kín trong
cái tôi quan
sát. Đây là điều mà ta nhầm tưởng là thực tại….Thực tại,chính là
tiếp điểm khi ý thức phóng đến và định diện bàn tay đang cầm ly
trà. Lúc này, ta đừng hỏi ý thức của ai đó?
Sự thiền quán không phải một đối
tượng mà là nhiều đối tượng cùng lúc là toàn thể, vũ trụ. Nói
cách khác,có một vũ trụ đang xuất lộ.
Rồi thì, ta tiến đến điểm mà K khai
thị. Vũ trụ đang trong thiền quán….
Điều mênh mang này cần nhiều khai phá
và lĩnh hội.
Điều có thể giải trừ là các hiệu ứng tâm lý. Ta vẫn thường
dính mắc trong việc nhìn nhận thiền quán gắn với một cá nhân nào
đó. Điều này là không thực như đã trình bày về thói quen, sự tương
tục của ý thức…
Một đoạn cuối mà chúng ta đi tiếp.Cái
tự tại, cái đang là đang biểu thị nó. Là tôi, anh, một cái hoa hay
tiếng chim hót.Có thể nói rằng,chúng ta là những biểu thị. Hình
dung các cá thể là bọt sóng của những dòng chảy trong đại dương. Nó
biểu thị các dòng chảy và là cả đại dương ấy. Tuy nhiên không có sự
tương đồng….
Cá thể K là một hiện tượng. Trong vô
số các trạng thái của hiện tượng có trạng thái mà K thể nhập trong
cái đang là,cũng tức là vũ trụ. Khi ấy,chúng ta chứng kiến văn cảnh
mà K nói: cái đang là nói về cái đang là….
Ta hãy lùi lại rất xa trước khi
tiếp tục tiến đến. Một trong những mơ ước thời thanh xuân của tôi là được viết về một
trong hai nguyên mẫu: Đức Phật và Đức Ky tô.Mơ ước này không đến mức
độ thôi thúc và tôi đã lãng quên sau đó. Vài dòng cuối này tôi muốn
thực hiện phần ít những ước mơ
của mình… Ý tưởng an ủi hiện giờ của tôi là, trong công việc
hiện tại tôi có thể giải tỏa cho
một
tiếng thở
dài xa xôi nào đó. Tươi sáng hơn, trong khi tôi trầm tư những gì đang
hiển hiện trước mặt, sẽ là sự hô ứng cho một màu sắc trong khung
vãi. Bởi vì, thế giới là tương thông và diễn dịch….
Kinh nghiệm về thời điểm giác ngộ của
Đức Phật. Trong đêm cuối sau 49 ngày thiền định Đức Phật tuần tự
chứng đắc. Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,…Sự chứng đắc này chỉ ra
vô số phương diện. Có một phương diện
ta có thể lĩnh hội đó là tính chất lũy tiến của một quá
trình giác ngộ. Ta nhận ra, sự bừng nở tâm trí sau một chặng dài
thao tác và đào luyện. Tâm trí vận hành với các gia tốc của nó. Đây
không phải là sự phát triển theo
một nhịp điệu đều đặn. Ta hình dung sự nở của những đóa quỳnh. Búp
của nó kéo dài trong khoảng thời gian nửa tháng. Hoa nở trong vài
giờ và ta nhận ra sự chuyển động mãnh liệt của quá trình này….
Kinh nghiệm giác ngộ này sẽ tái hiện
trong những hành giả khác. Với những cấp độ khác. Chẳng hạn với
một hành giả X sẽ dừng ở mức độ thiên nhãn thông…Kinh nghiệm toàn
mãn của Đức Phật mở ra vô số phương diện mà hành giả có thể truy
tìm, thể nghiệm. Một cái gì đó thuộc về vũ trụ đã xảy ra như vậy?
Phải xảy ra như vậy?
K phỏng đoán sự hình thành tâm trí
Đức Phật là phải được tích lũy sau vô số kiếp. Một điều kiện khác,
đó là sự tra vấn liên tục của tâm trí….Sự tra vấn này hướng ra
nhiều phương diện. Sự tra vấn, cũng tương tự việc lắng nghe, một trong
những tác động của nó là nhiếp dẫn những nguồn mạch năng lượng bên
ngoài.Nói khác đi, trong hành vi tra vấn, quán chiếu hành giả đang
thực hiện một hành vi vũ trụ….
Lời dạy của Đức Phật đã chỉ sẵn những
con đường mà hành giả muốn đạt đạo. Vậy thì, tại sao ta cần phải
truy tìm những kiến giải và nhận thức mới? Điều này thực đơn giản,
trong khi truy tìm ta lặp lại chính con đường mà Đức Phật từng trãi.
Nói cách khác,thay vì tiếp nhận một hệ thống tri thức,chúng ta đang
thực hiện nó bằng nỗ lực của thân và tâm. Sau một chặng đường ta có
thể đạt lại hệ thống tri thức đó, tuy nhiên nó đã như một phương
tiện. Nói như vậy là giải trừ tính chất sở tri chướng trong liên quan
đến sự việc….Nói khác đi đó là một sự vượt qua liên tục…
Một hướng quan tâm khác. Anhxtanh nói
không phải cảm ơn nhà bác học mà hãy cảm ơn Đức Phật. Nghĩa rằng,
tất cả đã có từ tam tạng kinh điển. Tuy nhiên, con đường nào dẫn đến
Anhxtanh và thuyết tương đối? Ta chứng kiến một vườn hoa,nơi phát
tích, và một cành hoa cắm trên bàn. Đã xảy ra những vận hành và
thao tác nào mà cành hoa đó có ở
trên bàn? Làm thế nào một phật tử, hoặc một học giả Phật giáo
khác có thể tìm ra những lý thuyết tương đối khác? Thay vì việc
dừng ở các chú giải kinh điển và thực hành đạo hạnh? Nói như
vậy,không hàm nghĩa bất kỳ sự phê phán nào. Chỉ là việc ta có thể
khai triển, làm phong phú và sinh động cho một tàng kinh các?
…Cá nhân là
những tảng băng trên một dòng sông. Phần chìm của tảng băng là những
gì cấu trúc và quy định sự hiện hành của nó. Chú ý rằng đây là
một hình ảnh so sánh tương đối. Tảng băng này nằm trong những tác
động khác, nắng, gió, các va chạm…Quan hệ xã hội của
hai người
trong sâu xa là sự tương tác của cả phầm chìm bên dưới. Những khí
chất cá nhân,sự di truyền của dòng tộc, phong tục xứ sở…Cá nhân có
thể giao tiếp thuần trên bề nổi của nó, nếu như là những người
khách qua đường. Hoặc nữa sẽ là sự va chạm,tương tác của cả phần
chìm bên dưới. Tôi đang có một đối tác là người Nhật. Quan hệ của
tôi và người đó sẽ là tương tác của truyền thống võ sĩ đạo và một
cái gì là “ thuần Việt”.Nó đang xảy ra trong cuộc nói chuyện mặc
dầu cả hai không đề cập đến. Sự tương tác này dẫn ra nhiều vấn đề….
Sự đồng thuận, đồng cảm có thể là
điều cả hai mong muốn. Như vậy, tôi phải tính đến cả phầm chìm bên
dưới. Trong phạm vi hẹp, tình trạng lý tưởng, nếu như cả hai không
tiềm ẩn một tay chuyên chế, sẽ là sự tan băng của cả hai. Khi đó chỉ
thuần là một dòng nước…
Cần chú ý rằng những nhận xét này
chỉ có tính tương đối khi hướng về xã hội. Một nền văn hóa tương
lai, nếu thực là văn hóa phải hướng đến việc giảm thiểu các khác
biệt. Tức sự làm tan băng…
Văn hóa là cần thiết, kể cả mức độ
bức xúc của nó. Những đường biên, là phong tục, ngôn ngữ cần phải
mở rộng dần. Lịch sữ trong các phương chiều vận hành của nó, có
một phương chiều như thế. Một thế giới hòa đồng chỉ thể tiến đến
khi những bước tiến đầu tiên của nó, chỗ đứng dầu tiên của nó không
bị kết dính quá sâu vào những gì là bản địa. Điều này không phải
là sự chối từ. Chỉ là việc đi sâu vào các cấu trúc nguyên thủy. Sự
duy nhất về bản địa. Bản địa ấy là tinh thần trong vô số ràng buộc
và dính mắc của nó….
Từ những duyên cớ nào đó,thật diễm
hạnh cho người viết, bạn đọc đang cầm tập tùy bút này trên tay. Như
một buổi trà đạo chúng ta sắp chia tay một cuộc hội ngộ.Tôi đã nói
quá nhiều hay nói như vậy là chưa đủ. Tính chất sơ lược của diển
giải? Những bố cục xộc xệch và tùy tiện?...Những thông tin,mà tôi
xem như là các dữ kiện tinh thần cho một quá trình xem xét của bạn, đã trình ra quá ít ỏi? Hoặc
thừa đi như một nhánh lá rườm rà?
…Rikel trong Những lá thư gửi cho người
thi sĩ trẻ tuổi có viết, tác giả có thể nói như vậy vì đã từng lê
lết trong đời sống. Im so so…Chàng ta, sau bao nhiêu mưa nắng vẫn giữ
lại một ít nét thanh tú trong cái nhìn.
Tâm hồn thì vẫn còn phảng phất chút hương vị thanh xuân. Một
đôi lúc thất vọng quá, trong mơ tôi lại nghe ai đó nhắc. Hãy yêu đời
và thấy cuộc sống tươi sáng…Lời nhắc từ thinh không mà tôi đã nhận,
cùng với đó là sự chuyển hóa tâm trí. Tôi đang thực hiện một hành
vi hồi hướng về cuộc đời,về phía bạn….
Giờ lại một đêm thu. Vài ngày trước
đây, có một giấc mơ mà tôi hãy còn
ngẫm nghĩ. Tôi đangở trong một căn phòng hẹp. Bên ngoài là những bóng
đen đang định tiến vào. Tôi cảm giác về
tình trạng nguy hiểm sắp ập đến. Tôi cố gắng lùi về một bức
tường của căn phòng. Ở đó có một khung cửa sổ. Bên ngoài khung cửa
là vùng sáng xanh. Tôi nghĩ rằng việc vượt thoát qua
khung cửa sẽ là giải thoát. Đột nhiên một khúc nhạc nổi lên. Đó là
tiếng đàn tam thập lục.Tôi cảm giác người chơi là một cô gái…Khúc
nhạc kéo dài chừng vài phút và theo một tiết tấu hơi nhanh. Trong mơ
tôi nhận ra khúc nhạc chơi ở cung trưởng và cả những bồi âm của nó. Tâm trí tôi đột nhiên thay
đổi sau khi nghe đoạn nhạc. Tôi nghĩ đến những quan hệ, trách nhiệm…
Tôi thức giấc.Nếu như có khả năng ký
âm tôi sẽ ghi lại đoạn nhạc đó.Lúc ấy là ba giờ sáng….Khúc nhạc
này từ đâu mà có? Một hình ảnh trong mơ ta có thể cho là ảo giác,
tuy nhiên đây là khúc nhạc trọn vẹn. Căn nguyên khúc nhạc là một bí
ẩn. Trong khi nó quá là hiện thực.
Những quan tâm của tôi hướng về người
khác, những người khác…
Một phương diện của giấc mơ. Sự hòa
hợp của âm nhạc là tuyệt hảo trong những gì giác quan có thể tri
nhận. Sự hòa hợp mà tôi, hay người
đọc giả định đang tìm kiếm là quà
tặng của cuộc đời sau những nỗ lực, mệt nhoài. Là một sự ngẫu nhiên tựa như ta được
nghe tiếng gió réo qua những tàn dương, tiếng lòng Schubert đang thể
lộ trong khúc nhạc chiều?
Sự trỗi dậy của khúc nhạc ngay tức
khắc trong giấc mơ làm tôi nghĩ về những gì là hô ứng, nhiệm mầu…
Ngày 29/10/2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét