2- TƯ TƯỞNG( 2)
Ta cũng nhận ra qua việc xem xét ý niệm sự hình thành tư
tưởng. Tư tưởng chính là việc ý thức diễn dịch nó qua một số ý
niệm. Quả cam màu vàng, năng lượng trong tự nhiên là bảo toàn, tôi là
người vô thần… là những ví dụ. Hình dung ý niệm là những viên gạch,
vôi vữa, tư tưởng là mảng tường đã được xây dựng. Và có thể nói là
cả công trình đồ sộ đã hoàn thành. Ta thấy ngay rằng, không thể có
tư tưởng nếu không có ý niệm. Với chỉ một ý niệm tư tưởng cũng
không được thiết lập ở đó. Hoạt động của ý thức trước hiện tượng
nhưng không có bất kỳ ý niệm là một quan sát, tức sự Thấy. Ta lưu ý
điều này cho những xem xét riêng biệt về nó. Tư tưởng không thể nảy
sinh nếu không có ý niệm. Ngược lại, có những ý niệm nhưng tư tưởng
chưa thành lập tại đó. Đây là dạng tồn tại ý niệm ở dạng ký ức của ý thức. Chính khu vực
ký ức này quyết định tư tưởng, tồn tại và những giới hạn của nó.
Trước cùng hiện tượng, ở ý thức này có thể là tư tưởng đơn giản:
đây là một con người. Ở một ý thức khác: đây là một tín đồ Thiên
Chúa với thánh giá đeo trước ngực.Thánh giá tượng trưng cây thập tự
Ky tô bị đóng đinh trên đó hai ngàn năm trước. Ky tô là nhân vật lịch
sử, tuy nhiên qua tín ngưỡng đã trở thành huyền thoại. Với một ý
thức khác nữa: đây là bức tranh theo trường phái Ấn tượng, căn cứ các
tỷ lệ đã thay đổi. Tác giả bức tranh là một người quen. Tự thể
hiện tượng là gì, ta chưa xem xét điều này mà chỉ theo dõi tư tưởng
đã nảy sinh như thế nào. Ta thấy qua các trường hợp, không thể có sự
nảy sinh tư tưởng trực tiếp trước hiện tượng. Nếu như điều ấy xảy
ra, bất kể mọi ý thức, tư tưởng trước hiện tượng sẽ là duy nhất.
Các tư tưởng khác nhau này được nảy sinh theo ký ức, tức số ý niệm
mà ký ức có được. Nếu như ở ý thức chưa từng có ý niệm trường
phái Ấn tượng, hiển nhiên, tư tưởng ở đó không thể là một nhận xét
về phong cách nghệ thuật. Cũng vậy, so sánh Ky tô là nhân vật lịch sử
hay huyền thoại chỉ xảy ra khi ở đó có hiểu biết lịch sử và tôn giáo.
Cũng từ việc không có nảy sinh trực tiếp tư tưởng trước hiện
tượng, ta nhận ra sự tự do, hoặc tùy tiện của ý thức trước hiện
tượng. Tức rằng, thay cho việc xác định đây là con người có thể xác
định như một hình vẽ, vẫn cùng ý
thức đó. Khả năng nảy sinh nhiều tư tưởng, một lần nữa, phụ thuộc
vào số ý niệm mà ý thức từng có. Tức rằng, có sự tự do của ý
thức trước các ý niệm. Mức tự do này lập tức bị giới hạn, và cố
định theo tư tưởng nảy sinh tại đó. Không thể có đồng thời hai tư
tưởng trong cùng ý thức trên một thời điểm. Nói khác rằng, tư tưởng
cũng chính là vật hóa ý thức, đi đến cố định và giới hạn theo ý
niệm nào đó.
Ta cũng nhận thấy, tiến trình tư tưởng lập thời gian cho hiện
tượng. Sự xác định thoáng chốc: đây là con người, và chấm dứt ở
đó, là chưa có thời gian tạo thành. Trên thông lệ, ý thức xác định
rằng con người này sinh năm… Anh ta học trường Lômônôxốp. Hiện anh ta
làm việc tại viện Cơ học, chẳng hạn… Sự hồi phục những ý niệm của
ý thức theo một khuôn mẫu, chiều hướng nhất định lập ra tư tưởng nào
đó của chính nó. Nó lại ngộ nhận có một tiểu sử thực của đối
tượng, là con người, một cái cây, một chu trình tự nhiên… Ngộ nhận
nghiêm trọng hơn, một khi hiện tượng không còn phù hợp với ý niệm cố
định, ý thức khẳng định hiện tượng đã là tiêu hủy, biến mất, không
còn tồn tại. Cũng như thế là những tư tưởng theo kiểu: người này
sống sáu mươi tuổi, nước đông kết qua đêm, phản ứng xảy ra sau bốn
tiếng đồng hồ… Ta nhận ra, những tư tưởng trên không khác gì sự vật
hóa ý thức theo những chiều hướng khác nhau. Xác minh rằng, cái gọi
thời gian chính là tiến trình ý
thức, cố định bởi một ý niệm của nó, qua đó xâu chuỗi những ý niệm
khác. Cái gọi đời sống cá nhân không thể xảy ra nếu như không cố
định ý niệm cá nhân đó. Chẳng hạn, ta được một tổng hợp đại loại:
người này là đàn ông, đây là bộ lễ phục, sự quan sát của mắt… Sự
hợp lý theo ý thức kinh nghiệm trong trường hợp này là: tôi trông
thấy một người đàn ông mặc lễ phục. Câu hỏi đặt ra: sự hợp lý này
dựa trên cơ sở nào? Ta cũng chú ý qua phần này, giống như việc xác
định ý niệm, tư tưởng không được gắn kết với cá nhân, hoặc quy về
nguồn gốc nhất định. Thực chất điều này là sự vật hóa của ý
thức. Sau khi thiết lập tư tưởng qua một số ý niệm, ý thức quy kết
nó với một ý niệm khác, tức tôi tư tưởng. Tôi đã nghĩ thế. Lại có
ngộ nhận lớn hơn thế, cá nhân khẳng định nó qua việc suy nghĩ: Tôi tư
duy tức tôi tồn tại. Ở đây mệnh đề được rút ngắn: Tư duy.
Ta trở lại, vô hình ý niệm cũng chính là vô hình tư tưởng.
Chỉ ra một sự kiện như hình thể tư tưởng là điều vô nghĩa. Đó chỉ
là việc ý thức hồi phục một tiền niệm trước một hiện tượng giới
hạn từ nó. Cũng thể nói, hữu hình của ý niệm, tư tưởng chính là
sự hữu hình của ý thức. Khi ấy, còn ở trong suy nghĩ, hoặc được
phát ra thành lời, chữ viết, đó là sự ngưng kết của ý thức. Bỡi
lẽ, có thể có ý thức nhưng không có bất kỳ ý niệm, tư tưởng hình
thành, quyết định sự quan sát, vận động của nó.
Tiếp tục, một khi tư tưởng nảy sinh, không thể có tác động bên
ngoài quyết định sự dừng lại, hoặc quy định chiều hướng phát triển
cho nó. Đơn giản rằng, ta không thể quyết định ý thức suy nghĩ cái
gì, như thế nào. Sự áp đặt như thế là truyền đi một thân xác của ý
thức này đến ý thức khác. Nó trở nên sống động, hoặc như một tài
liệu tùy thuộc vào ý thức đang
tiếp nhận nó.
Đến đây, ta xem xét cái gọi mâu thuẫn giữa các tư tưởng như thế
nào? Mâu thuẫn nảy sinh khi có ít nhất hai tư tưởng
khác biệt trên cùng đối
tượng, sự kiện. Quả cam màu vàng, Trái táo ngọt. Hai tư tưởng này
không có bất kỳ mâu thuẫn. Mâu thuẫn theo ngộ nhận sẽ nảy sinh theo
kiểu: trái táo chua, trái táo ngọt. Vật chất quyết định ý thức. Ý
thức quyết định vật chất… Trước hết, ta ghi nhận rằng mâu thuẫn chỉ
thể nảy sinh giữa hai tư tưởng khi nó chung một số ý niệm nào đó.
Chẳng hạn là trái táo,vật chất, ý thức. Sau đó, nó quy đồng về
một bản thể, tự tính của hiện tượng để khẳng định tư tưởng này là
phù hợp, tư tưởng kia là không.
Một khi cái gọi bản thể, tự tính là chưa từng tồn tại. Các
tư tưởng không thể đưa về một cơ sở nào đó để so sánh. Nó sẽ nằm
bên nhau không qua tiếp xúc nào khác. Như vậy mâu thuẫn nảy sinh bằng
cách nào? Vào lúc nào?
Dẫn đến trường hợp còn lại, hai tư tưởng biết đến nhau. Ý
thức này biết đến tư tưởng của ý thức kia qua biểu lộ bằng lời,
hoặc chữ viết. Chẳng hạn tư tưởng vị kỷ và tư tưởng khắc kỷ. Ta
nhận ra, ý thức vị kỷ biết đến tư tưởng khắc kỷ sau sự hoàn thành
tư tưởng vị kỷ ớ chính nó. Trong lúc tiếp nhận tư tưởng khắc kỷ
không thể nảy sinh tư tưởng nào khác. Như vậy, thực chất mâu thuẫn tư
tưởng chỉ thể có trong một ý thức với những tư tưởng khác nhau của
nó.
Tiếp đó ta nhận ra không có bất kỳ mâu thuẫn qua xem xét sự
hình thành tư tưởng. Hai tư tưởng trong một ý thức thực chất đã là một tư tưởng. Theo
nghĩa tư tưởng là sự vận động của ý thức từ ý niệm này đến ý
niệm khác. Cũng tương tự sau khi
xong mảng tường này người thợ xây dựng tiếp mảng tường khác. Như
vậy, có một mảng tường chung đã xây dựng. Mâu thuẫn, phủ nhận tư
tưởng này đến tư tưởng khác như người thợ đó đập phá mảng tường
vừa xây để xây dựng mảng tường khác tại đó. Tuy nhiên điều này không
xảy ra theo sự hoàn thành của tư tưởng trước.
Đến đây có thể khẳng định không có bất kỳ mâu thuẩn trong cả
hai trường hợp. Hai tư tưởng là đồng thời, tức nằm trong hai ý thức
khác nhau. Trường hợp kia, hai tư tưởng là kế tục trong cùng ý thức.
Ta đang nhận được một ý thức bất động trước các tư tưởng của nó.
Từ sự bất động này, ý thức
nhận ra nó là một cái khác,
độc lập với các tư tưởng mà nó theo dõi. Có ngộ nhận là sự đồng
nhất ý thức và tư tưởng của nó. Như từng nhắc đến điều này, cũng
là sự “vật hóa” ý thức. Nó dẫn đến những giới hạn,
xung đột và hủy diệt. Cả thảy là những ngộ nhận nếu như đặt một
quan sát ở đó. Cái ngược lại của “vật hóa” chính là “thoát xác”.
Cũng như từ xem xét trên, về tương giao của hai hay nhiều tư
tưởng. Ta nhận ra xác định đúng, sai, chân lý của tư tưởng đều là vô
nghĩa. Điều đó xảy ra khi có tư tưởng về một tư tưởng đã hoàn
thành. Xác định đúng, sai là sự kế tục tư tưởng trong một ý thức.
Bởi lẽ trước khi đưa ra kết luận ý thức sẽ tư tưởng tiếp về tư
tưởng. Ta được một tư tưởng mới chứa đựng tư tưởng ban đầu nhưng không
có quan hệ thừa nhận, phủ nhận bất kỳ. Chân lý, sự đúng sai chỉ là
một ý niệm của ý thức xướng lên theo ngộ nhận từ nó.
Dẫn đến điều, nhìn nhận “ khách quan” về tư tưởng là nó đã
hoặc đang xảy ra. Ngoài đó ra không thể có kết luận, nhận xét khác
nào về nó. Trường hợp tư tưởng đã xảy ra, được lưu lại ở chữ viết,
trong sự đọc ý thức đang thiết lập tư tưởng đó. Dĩ nhiên, các ý
niệm cũ và mới chỉ cho tư tưởng cũng là vô nghĩa trong trường hợp này. Bởi lẽ, trước sự
đọc đó ý thức chưa từng kinh nghiệm tư tưởng. Trong sự đọc, tư tưởng
xảy ra. Như vậy, ta sẽ so sánh nó với cái gì?
Trường hợp tư tưởng đang xảy ra, được nói thành lời ngay trong
tiến trình suy nghĩ. Với sự chú tâm, tức ý thức “khách quan” trước
khi theo dõi không có bất kỳ hoạt động tư tưởng nào khác, tính chất “khách quan”
này đã mất đi. Có thể nói, ở đó chỉ có một tư tưởng. Diễn
đạt theo những ý niệm của ngộ nhận “người này” và “người kia” là
một trong sự kiện tư tưởng đó. Ta
nhớ lại trường hợp viên gạch và những mảng tường xây chứa trong nó.
Ngộ nhận là có hai mảng tường do hai ý niệm phân biệt “này” và
“kia”. Dĩ nhiên, sự hợp nhất là một đã nảy sinh do phân biệt này.
Kết thúc phần xem xét, có những nhận xét sau. Với cùng số ý
niệm, hai ý thức khác nhau có tư tưởng khác nhau trước cùng hiện
tượng. Ta sử dụng theo những ý niệm của ngộ nhận, hiện tượng là
một “bông hoa” chẳng hạn. “Người này” nghĩ đến một bài thơ. “Người kia”
là những quan tâm về giá trị kinh tế. Ở người khác nữa là việc vò
nát. Tư tưởng không nảy sinh ở trường hợp sau cùng. Cũng thể nói
rằng không có thế giới nào thành lập ở đó, tức sự vắng lặng. Ở
hai trường hợp đầu, đều có những tư tưởng thành lập. Cách nghĩ nhắm
đến việc tái hiện qua thơ ca, cùng với
đó cách nghĩ nhắm đến việc trao đổi. Sự lặp lại cách nghĩ
này trước những hiện tượng khác, trở thành sự ổn định tương đối
của ý thức. Tức rằng, ý thức đang tạo ra những con đường mòn cho
nó. Biểu trưng ra, nó xác định người này như một thi sĩ, người kia
như một thương gia. Lưu ý rằng, những ý niệm này là có sau và là sự
“vật hóa” ý thức ở đó. Xác định thi sĩ, thương gia nằm ở một ý
thức khác nữa tư tưởng về hiện tượng. Nếu tách ly cả hai ý thức
này, ở đó vẫn là sự vắng lặng.
Ta lưu ý điều này cho những xác minh và triển khai phần kế tiếp.
Một nhận xét khác, bản thân cách nghĩ, tức chiều hướng vận
động của ý thức cũng không là nảy sinh trực tiếp trước hiện tượng.
Cũng không thể chỉ ra cái gọi nguyên lý, quy luật ẩn sau hiện tượng,
quy định cách suy nghĩ. Ở đây là sự tập truyền kiểu khác, tức phương
thức suy nghĩ. Cùng sự “vật hóa” vào những ý niệm, ý thức đang
khuôn nó vào những cách suy nghĩ quen thuộc này. Dĩ nhiên ta cũng
không nói ra điều ấy đúng hay sai ngoài nhận xét về những giới hạn.
Từ vô xứ, vô hình đến hữu xứ hữu hình, có thể nói vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét