CÕI Ý
1- Ý NIỆM
Ta gọi cái bàn, giá sách, tôi, người khác, nóng, lạnh, đứng
yên, vận động, hay là, như là… là những ý niệm. Theo ngữ pháp, đó
là toàn thể danh từ, tính từ, động từ… Nói chung là toàn thể ngôn
từ dùng để biểu thị và xác định thế giới. Như vậy, thế giới là
được biểu thị thông qua số ý niệm, ngôn từ với bất kỳ sự vật, hiện
tượng trong nó. Một sự vật, hiện tượng không có ý niệm tương ứng đã
thuộc về thế giới khác, nếu có. Ta không có bất kỳ ý niệm về thế
giới loại này. Các quan hệ trong, ngoài, trước, sau là không thể
thiết lập. Câu hỏi ngoài thế giới này còn tại thế giới nào khác
là vô nghĩa. Ở chỗ, ý niệm ”ngoài”, ”tồn tại” đã thuộc về thế
giới này. Nó tương tự câu hỏi ngoài mảng tường có viên gạch này còn
mảng tường nào khác cùng chứa viên gạch. Giả định một thế giới như
thế tồn tại, nó đã thông nhau với thế giới này. Khi ấy, thực chất
chỉ là một thế giới với cơ sở là những ý niệm trong nó. Với hình
ảnh viên gạch, trường hợp này là góc tường nào đó. Ở đây, hình ảnh
cố định về mảng tường cần thay đổi. Tức rằng, góc tường cũng chính
là mảng tường. Thực tế ngộ nhận rằng đã có hai mảng tường khác
nhau chung một viên gạch. Ta hãy tạm dừng triển khai này để trở lại
việc xác định ý niệm.
Cái bàn, tôi, tức là… là những ý
niệm nhưng ý niệm là gì?Trên phương diện ngôn ngữ, dĩ nhiên, bản thân
từ ý niệm là không quan trọng. Ví dụ rằng, trong kiểu chữ tượng
hình của người Trung Hoa “nhân” biểu thị ước lệ hình dáng một người
đứng dang tay. Người sử dụng có thể không hiểu xuất xứ, tuy nhiên vẫn
có thể tiếp nhận nội dung ”người” khi xem. Cũng tương tự trong từ
Việt, Anh ”người”, ”the man” không có liên hệ gì với hình tượng người
nhưng qua việc đọc, người tiếp nhận đều có một xác định. Xác định
này không cố định cho mọi trường hợp. Tuy nhiên, có một lớp ý nghĩa
giới hạn. Chẳng hạn, qua “người” khó thể nảy sinh tiếp nhận có hình
ảnh con cuốn chiếu. Điều này vẫn có thể xảy ra trong các trường hợp
đặc biệt, như so sánh trong đời thường, ẩn dụ trong thi ca. Để bớt
việc phức tạp cho việc trình bày và theo dõi, ta sẽ bỏ qua những
trường hợp này. Tức rằng, cho bản thân từ ý niệm, không có những
tiếp nhận như trái cam, cơn hồng thủy. Căn cứ vào ý nghĩa là một
lớp giới hạn rộng, nó được xác định theo chủ quan từng trường hợp.
Ở đây, ta không đưa ra định nghĩa trực tiếp, cụ thể về ý niệm. Khi
điều ấy xảy ra, nó đã là một xác định chủ quan. Tức một giới hạn
trong lớp giới hạn. Khả năng diễn đạt của ngôn từ giảm đi.
Sau việc xem xét trên phương diện ngôn ngữ, tức sự thể hiện nó,
nhận xét rằng tồn tại ý niệm trong một ý thức nhất định. “Con
người” một ý niệm là nằm trong suy tư một triết gia, điều tra một
nhà xã hội học, hoặc trong ý thức cá nhân thời điểm nào đó. Tách
ly toàn thể các ý thức nó không có tồn tại độc lập nào khác. Chú
ý rằng, “con người” không phải là một kỷ sư, viên chức, một người lao
động ta bắt gặp mỗi sáng trên đường và nhầm tưởng. Các xác định
này vẫn chính là các ý niệm của ta, và ở trong ta. Việc sử dụng
các ý niệm ”kỷ sư”, “viên chức”…để trỏ vào “con người” thực chất là
thay thế ý niệm này cho ý niệm khác. Sự xác thực của nó trước đối
tượng là như nhau, ở chỗ không xác thực của nó. Trên thực tế, tức
là những tư tưởng, có ngộ nhận như sau. Nó xem rằng ”kỷ sư” hoặc kết
hợp với những ý niệm khác: làm ở một xưởng thiết kế, cư ngụ trong
một khu phố, các thói quen sinh hoạt… là sự xác định cụ thể và là
thực tế theo nó.
Ngộ nhận khác, ý thức nhận ra sự trừu tượng hóa của những
xác định. Tức rằng, ý thức đang đặt con người vào những quan hệ bên
ngoài nó: công việc, lịch sử, luân lý… Nó tiến đến khẳng định bằng
việc phủ nhận các xác định. Sau đó, vẫn theo nó xác định có ý
nghĩa là hiện diện duy nhất là của cá nhân với những khả năng tự do
của cá nhân ấy. Một sự phủ nhận
như thế đã là phủ nhận ý niệm, và là hệ thống ý niệm, bằng những
ý niệm khác. Nó đã rơi vào vòng lẩn quẩn của sự xác định và diễn
dịch. Qua diễn giải ta cũng thấy rằng xác định của một ý niệm bằng
vào những ý niệm khác. Trong hình dung, theo từng ý thức, ý niệm
cái bàn có thể là một tấm phẳng, bằng gỗ hoặc mi ca, có bốn hoặc
một chân… Trên diễn giải nó được xác định bằng: cái bàn là một tiện
nghi sinh hoạt, dùng để đặt những đồ vật khác trên nó, để viết hoặc
dọn ăn…Ý niệm cái bàn tự nó là không xác định và không có ý
nghĩa. Xuất hiện hình ảnh trực quan khi ý niệm cái bàn xướng lên
một cách tức thời là có thể có. Tuy vậy, hình ảnh này chưa có tên
gọi, và những xác định của ý thức thông lệ. Lại chú ý, hình ảnh
trực quan này là tương đối theo từng ý thức. Một người chưa từng có
ý niệm cái bàn, sau khi ý niệm xướng lên là không thể có bất kỳ
hình ảnh về nó. Ta chú ý điều này vì một số ý thức tri nhận
“trực quan” là một xác thực chung. Từ ấy, nó khẳng định tồn tại
chân lý trong khu vực cảm tính, cụ thể.
Như ý thức kinh nghiệm có những phân loại về ý niệm: ý niệm
cụ thể, ý niệm trừu tượng. Theo nó, cái bàn, nóng lạnh, xanh, đỏ
là những ý niệm cụ thể. Tất yếu, tự do, lý tưởng, ý chí là những
ý niệm trừu tượng. Xác định ”cụ thể”, “trừu tượng” theo nó bằng
vào những hình ảnh trực quan có thể của ý thức sau khi ý niệm được
xướng lên. Tính tương đối của điều này ở chỗ khả năng tri nhận, sử
dụng các ý niệm lại phụ thuộc vào các ý thức. Những con số vốn
là trừu tượng nhưng qua sử dụng, đặc biệt trong tư duy toán học, đã
trở thành cụ thể. Tư duy hệ thập phân khi chuyển qua hệ nhị phân đã
rơi vào sự trừu tượng, và ngược lại. Khả năng nắm bắt các thuật
ngữ triết học của một triết gia không thể quy đồng với người chưa qua
học vấn. Về thực chất, tính cụ thể, trừu tượng của các ý niệm
chỉ ra khả năng tư duy trong từng trường hợp riêng biệt. Tính cụ thể
và xác thực của “cái bàn”, “màu xanh”, “thực phẩm”… chỉ là sự hồi
phục và tiếp diễn những ý niệm của ý thức trong không gian quen
thuộc, tức ký ức. Một khi ý thức bị phá vỡ, ta nhận ra ngay sự
trừu tượng, và cả bất xác của những ý niệm trên. Giờ đây, ta xem
xét ý niệm trong quan hệ với ý thức. Sự xác thực của ý niệm là
nằm trong ý thức nhất định. Chẳng hạn “con người” là ý niệm trong
một suy nghĩ. Tồn tại của nó có thể như một nảy sinh bất chợt, là
trung gian trong một tiến trình suy tư, hoặc như kết thúc một tư tưởng.
Ta sẽ khảo sát từng trường hợp. Ý niệm “màu xanh” có thể nảy sinh
khi đối tượng ý thức là chiếc lá, mặt biển hay bầu trời. Sự nảy
sinh trực tiếp này tạo ra ngộ nhận về tính liên tục của ý thức
trước thực tại. Tức rằng, theo ngộ nhận có một thế giới thực tại ngoài chủ quan ý thức. Sự xem xét
cặn kẽ hơn chỉ ra ý thức ở đó đang hồi phục một trong những tiền
niệm của nó. Nảy sinh ý niệm là tự nhiên, ở thời điểm đó, đã tựa
trên những kinh nghiệm của ý thức. Ta nhận ra sự xác định máy móc
của ý thức trong trường hợp này. Tương tự việc cá nhân đáp trả khi
có ai gọi tên nó. Ở đó, ý thức không cần phải xem xét tên gọi có
những ý nghĩa gì? Nó có những nguồn gốc nào? Sau hết, đâu là sự
xác thực giữa tên gọi và nó? Hiển nhiên, sự đáp trả tức khắc không
có nghĩa sự đồng nhất giữa tên gọi và nó.
Trường hợp khác, tồn tại ý niệm là trung gian trong một tiến
trình tư tưởng. Chẳng hạn cảm giác “dịu mát” do màu xanh đem lại.
Tương ứng với diễn đạt này là ý thức nào đó đang diễn dịch qua
những ý niệm của nó. Cơ cấu trường hợp này vẫn như trường hợp
trước. Ở thời điểm xảy ra sự việc, tức cảm giác, chưa có sự thâm
nhập của ý thức vào những ý niệm của nó. Tức rằng, có một trạng thái tức thời, không nằm trong biểu thức bất kỳ xác định cho nó. Cũng ngược lại, tồn
tại biểu thức ở sau có tính chất tùy tiện của diễn đạt. Sự xác
thực của ý niệm trong ý thức đó chỉ như một công cụ của chính nó.
Nhận xét rằng, ngộ nhận trong trường hợp này thường tăng lên do sự
chặt chẽ của biểu thức.
Trường hợp ý niệm như kết thúc một tư tưởng, ta nhận ra sự
“vật hóa” của ý thức vào những
công cụ của nó. Chẳng hạn, trước đối tượng “con người” có thể có
một quan sát không có chủ đích của ý thức. Trong quan sát khác, nó
là con người, một trong ba ngôi vũ trụ, tức thiên, địa, nhân. Trường
hợp sau cùng như ta đang xem xét, sự “vật hóa”: con người này trạc
tuổi trung niên, anh ta là người da trắng…Ý thức đang khuôn vào những
ý niệm của nó. Những xác định kiểu này tăng lên, kéo theo nó sự
đông đặc của ý thức. Một khi những biểu thức của ý niệm đã thành
lập, cố định, có một hoạt động tinh thần đã chấm dứt. Ở đó ý
thức đã bị vật hóa toàn thể.
Quan hệ ý niệm và ý thức còn được soi sáng thêm qua xem xét
sau. Đứng trước cùng vật thể với một ý thức là cái nhìn thoáng
qua, hoặc quan sát tỉ mỉ nhưng không cố định, xâu chuỗi quan sát theo
một ý niệm duy nhất. Trường hợp này tương tự sự kiện vứt đi vật
thể nhưng không vì mục đích nào đó. Nó như một việc làm ngẫu hứng.
Trường hợp khác là sự xác định, tức nảy sinh ý niệm, một trái cam
chẳng hạn. Một ý thức khác, ý niệm nảy sinh là sự tròn đầy. Trong
một ý thức khác nữa, là sự định giá trái cam. So sánh các trường
hợp ta nhận ra, trước hết là sự nảy sinh ý niệm hoặc không là do ý thức chủ quan. Cũng tức rằng,
sự xác định quả cam duyên do ý thức nhất định. Ngộ nhận xảy ra là
có một quả cam tại thể. Điều này không gì khác hơn sự hồi phục một
tiền niệm của ý thức trước một
hiện tượng giới hạn theo nó. Tiếp theo, sự nảy sinh các ý niệm khác
nhau theo từng ý thức. Quả cam, sự tròn đầy, năm yên… chính là những
ý niệm đó.
Từ sự nảy sinh những ý niệm khác nhau, ta chỉ rằng những ý
niệm là như nhau, theo nghĩa sự phát khởi tự do, tùy tiện của
nó.Các khẳng định quả cam, sự tròn đầy là chân lý đều vô nghĩa như
nhau. Vẫn thường rằng, trước sự kiện đơn giản ta có thể xác minh, để
nhầm lẫn ở các trường hợp phức tạp hơn thế. Chẳng hạn khẳng định
tư tưởng này là chân lý so với những tư tưởng khác.
Câu hỏi đặt ra, từ đâu ý thức có những ý niệm để biểu thị
hiện tượng? Điều này là do tập truyền, ghi nhớ trở thành ký ức của
nó. Từ ký ức này các ý niệm nảy sinh ở hiện tại với sự dụng công
của ý thức hay không. Một ý thức chưa từng có ý niệm tròn đầy không thể có sự phát khởi ý niệm
trước hiện tượng. Nó chỉ rằng, đó là quả cam, màu vàng như kinh
nghiệm. Ý nghĩa sự dụng công như sau: Trường hợp đơn giản chẳng hạn
việc gọi tên, ý thức sẽ đáp trả ngay tức khắc. Trong việc giải một
bài toán, nó phải hồi phục vô số ý niệm khác, tức các bước suy
nghĩ, tính toán. Những ý niệm này
từng có ở dạng rời rạc. Có một tư tưởng, tức sự vận động của ý
thức, đang xảy ra để đi đến một ý niệm trong nó.Ta hình dung một
người đang đi tìm trong kho bãi một đồ vật nào đó. Kết quả tìm
được, tức một ý niệm sẽ xuất hiện sau vô số ý niệm khác. Ta có nhận
xét sau. Sự dụng công, tức các tiến trình tư tưởng là tùy thuộc
từng trường hợp. Với người ‘thông minh” nó sẽ có con đường ngắn hơn
so với những trường hợp khác. Một khi kết quả như sự hiển hiện ta
nhận ra sự năng động của nó. Trường hợp trong ký ức chưa từng có ý
niệm tương tự, nó sẽ đề ra những ý niệm mới. Chẳng hạn sự hình
thành số âm, số ảo trong toán học. Trên một phương diện, có thể xem
như sự sáng tạo của ý thức. Trên phương diện khác nữa, đây vẫn là
sự luẩn quẩn của ý thức trước những hiện tượng từ nó. Tức rằng,
nó đang tạo ra một thế giới ý niệm ngày càng lớn hơn, có vẽ chặt
chẽ hơn để xác định về thực tại. Tuy nhiên nó rơi vào sự trừu tượng
ngày một lớn dần. Một khi nó nhận ra sự bất lực và cũng không tìm
cách xây dựng ý niệm nào mới, có một khoảnh khắc xuất hiện. Lúc
đó nó đang là cái nhìn bất định. Nói khác đi, không có một thế
giới nào thành lập ở đó. Song, trên thực tế, khoảnh khắc này thường
bị bỏ qua.
Giờ đây, ta xem xét tính chất vật thể, tài liệu của ý thức.
Sự nảy sinh của nó là nằm trong ý thức với mục đích nào đó. Qua
tập truyền, lưu trữ kể cả việc sử
dụng thường xuyên hay không nó cấu thành đặc trưng của một đời sống
tinh thần. Màu xanh, màu đỏ, đường nét là những ý niệm thường có
của một họa sĩ. Với một triết gia, những ý niệm đó là vật chất,
tinh thần, bản thể, ngẫu nhiên, tất yếu… Từ một ký ức khác nữa là
những ý niệm giá trị, tài sản, tiền tệ, hàng hóa. Ở đó đang là
một thương gia. Ở mọi trường hợp, từ nhà thông thái đến người vô học
đều tồn tại một số ý niệm nhất định. Dạng ký ức nó như một tập
hợp rời rạc. Trong tiến trình suy tư nó mới được liên kết và tạo nên
tư tưởng nhất định. Và, tư tưởng một cách hệ thống, các ý niệm đều
được sử dụng đến là một khả năng khác của ý thức. Theo một chiều
hướng, ý thức đang xem xét, tạo ra một thế giới từ nó. Theo chiều
hướng khác, đó cũng là việc ý thức đang bị vật thể hóa.
Và kết thúc phần xem xét này, ta có những bổ sung sau. Một ý
niệm có thể nói lên, viết ra hoặc ở dạng tiềm ẩn. Ở hai trường hợp
đầu, nói và viết, ngay lập tức rơi vào sự tĩnh tại, vật thể. ”Cái
bàn” ở dạng chữ viết chỉ là cái bàn trong việc đọc, tức ý thức
nào đó. Sự quan tâm của ta cho những ý niệm đang xảy ra này. Lại chú
ý rằng, không có sự quy kết kiểu này và với cá nhân xác định. Bỡi
lẽ, cái gọi cá nhân lại là ý niệm của một ý thức khác xác định
cho hiện tượng ý thức, là đối tượng ”vô hình” trước nó. Nó thực sự
biết đến ý thức kia khi có sự biểu lộ qua lời nói, tức đã nghĩ
gì. Cũng thể là đang suy nghĩ gì, tức tư tưởng thành tiếng. Vẫn
thường ngộ nhận rằng, cái gọi sự biết qua đồng hóa ý thức và tiền
niệm: người đang ý thức, thân thể, hình dáng, tiểu sử. Sự biết ấy,
thực chất là việc ý thức vẫn đang hoạt động theo con đường riêng lẽ
của nó. Tức rằng, các ranh giới trong, ngoài, giữa hai ý thức đã bị
xóa bỏ. Diễn ngôn có thể cho trường hợp này: tôi là ngài và là thế
giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét