6- XÃ HỘI
Sự chấm dứt của một ý niệm không thể là sự diễn dịch nó qua
những ý niệm khác, hoặc xây dựng hệ thống ý niệm để thay thế ý
niệm ban đầu. Cũng như các ý niệm khác, ý niệm xã hội chỉ chấm
dứt khi ý thức trực tuyến thực tại. Ngay thời điểm này ý thức nhận
ra sự phát sinh và duy trì hiện tượng xã hội là từ nó. Cái gọi
tồn tại, quan hệ xã hội không bao giờ là những thực thể nằm
ngoài ý thức, để từ đó điều phối
suy nghĩ, hành vi thực tế của cá nhân. Ví dụ, một hiện tượng xã
hội là mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ. Ta nhận ra từ thực tại, cái
gọi chủ nô và nô lệ chỉ là hai ý niệm nằm trong hai ý thức. Nếu
dừng lại ở đó, hiện tượng chỉ là hai ý niệm rời rạc. Trên thực
tế, ý niệm chủ nô được liên kết với những ý niệm khác, về nguồn
gốc, tài sản, quyền lực đối với nô lệ. Tương tự vậy, ý niệm nô lệ
liên kết với các ý niệm không tài sản, làm việc không công, bị cưỡng
bức…Ý niệm đầu tiên “chủ nô”, “nô lệ”, có được củng cố qua những
liên hệ này, tuy nhiên trước và sau nó chỉ là kết quả nằm trong hai
ý thức. Ta không thể quy đồng hoặc tìm ra bản chất thực thể chủ nô,
nô lệ nào đó trong hiện tượng. Thực tế tiến trình là các nhận thức
thừa nhận mâu thuẫn, lý giải nó qua nguồn gốc, đặc điểm xã hội,
hoàn cảnh lịch sử, đi đến giải quyết bằng bạo lực, cách mạng. Thực
chất tiến trình là sự ngộ nhận của ý thức diễn tiến trong thế
giới hiện tượng.Sự giải quyết mâu thuẫn, chấm dứt nó chỉ xảy ra khi
các ý thức ở đó nhận ra thực tại, tương ứng với tình trạng vô niệm
của ý thức. Hiện tượng xã hội chỉ chấm dứt với sự kiện, phía sau
đó là những thế giới mới được thành lập. Tuy nhiên, lịch sử không đi
trên con đường này.
Trở lại vấn đề, hiện tượng xã hội chấm dứt khi sự Thấy xảy
ra. Điều này không đồng nghĩa trước hoặc sau sự kiện ý thức nhận ra
cơ cấu hiện tượng. Cũng tức rằng, nó có thể rơi vào các ý niệm
mới trong những tiến trình nhận thức thường thấy: các mục đích cá
nhân, đường lối giáo dục, học thuyết xã hội. Trên nhìn nhận, có
thể ý thức đã chấm dứt hiện
tượng xã hội, tuy nhiên trong thực tế nó tạo ra những vấn đề mới cho hiện tượng. Phủ nhận thế
gian ở cá nhân là một thực tế ý thức, song nó sẽ rơi vào lý
thuyết, ảo tưởng khi từ ấy quy về chủ thuyết nhằm phổ biến kinh
nghiệm. Như vậy, thông đạt các ý niệm tạo nên một vấn đề xã hội như
sự kiện, môi trường cơ cấu là cần thiết cho những trường hợp cụ thể
nào đó. Ta sẽ trình bày những hiện tượng xã hội theo nguyên cớ này.
Khởi điểm hiện tượng là có một ý thức từ cá nhân hướng về
những cá nhân khác ở ngoài nó. Những cá nhân bên ngoài này sau khi
trừu tượng và định danh chính là gia đình, tổ nhóm, dân tộc, tầng
lớp, giai cấp… Cái gọi xã hội không nhất thiết tính từ hai, ba người
đến số lượng lớn nào đó. Sự kiện xã hội chưa xảy ra khi hai cá nhân
ngồi bên nhưng hoàn toàn xa lạ nhau. Dĩ nhiên, những cá nhân này có
thể nghỉ về ai đó, là thân thuộc hay chống đối. Khi đó, có một tình
trạng xã hội xuất hiện nhưng không liên can đến người bên cạnh. Tình
trạng xã hội tại đó, vào thời điểm đó chỉ có thể nảy sinh khi ít
nhất người này nghĩ về người kia. Sau ấy là những biểu hiện của ý
thức, từ ngôn từ, đối thoại đến hành vi có thể.
Vẫn cùng ví dụ, ta nhận ra khi hai cá nhân này không cảm nghĩ,
hoặc chung một cảm nghĩ tình trạng xã hội giữa họ mất đi. Tình
trạng này sinh trở lại khi có sự phân biệt người này và người kia,
ở sau đó. Hoặc nữa nó nằm ở ý thức thứ ba đang quan sát và áp đặt những kinh
nghiệm từ trước cho hiện tượng. Điều này là ngộ nhận ở tính bên
ngoài và là một quá khứ. Ví dụ rằng, quan sát có thể áp đặt
những phân biệt hiện tượng, thành lập một tình trạng xã hội theo
nó: người này là Điđơrô, người kia là Ruxô, Điđơrô mặc áo đen, Ruxô từ
Giơnevơ trở về. Ta chú ý, những điều này chỉ là các ý niệm trong ý
thức người quan sát, nó hoàn toàn bất đồng nhất với thực tại.
Như vậy, trên phương diện khác, tình trạng xã hội là đang nảy
sinh trong từng ý thức nhất định. Cái gọi bằng hữu, kẻ thù, anh em,
người khác với những quan hệ thành lập theo đối tượng là các ý
niệm trung gian của ý thức đó. Với nhìn nhận cái tôi cũng là một ý
niệm như những ý niệm trên, ta nhận ra có một xã hội trong cá thể.
Nó là một sự kiện trong ý thức, tâm lý. Một cách tương đối bằng cố
định ý niệm cá thể, ta nhận ra có vô số xã hội đang xảy ra. Nó
hình thành từ các ý thức khác biệt với những tiến trình nhận thức
khác nhau. Nếu như mô tả, ước lượng ta nhận ra đó là toàn thể xã
hội loài người, từ tình trạng nguyên thủy, xã hội nô lệ, phong kiến
đến xã hội hiện đại. Nói cách khác, có thể nhận ra lịch sử loài
người ngay trong một thời điểm hiện tại như những gì ý thức đã kinh
nghiệm.
Ta cũng sẽ nhận ra qua những xem xét này có một ngộ nhận về
một xã hội chung tồn tại. Nó nằm trong những phát biểu đại loại: do
hoàn cảnh xã hội, dư luận xã hội, sự kìm hãm xã hội… Tồn tại của
xã hội này nằm từ xác định cá nhân về gia đình, hàng xóm láng
giềng cho đến các lý thuyết xã hội. Đối với một nông dân xã hội ấy
là những nông dân khác, giới quan chức làng xã, những tập tục địa
phương, sự chia rẻ hay đoàn kết dòng tộc. Đối với nhà kinh doanh, xã
hội ấy là những đồng nghiệp, nhà sản xuất, kẻ tiếp thị, đời sống
kinh tế thành phố, tình hình chính trị của khu vực. Đối với Điđơrô
xã hội ấy là nước Pháp thế kỷ mười tám, giai cấp phong kiến, giới
thương nhân, những tiến bộ của khoa học kỷ thuật. Đối với Ruxô vẫn
nước Pháp thế kỷ mười tám, quan hệ nhà nước Giơnevơ với nước Pháp,
những mâu thuẫn giữa Tin Lành và Cơ Đốc giáo, những bất bình đẳng
trong đời sống tự nhiên và xã hội. Ở đây mỗi cá nhân có một sự xác
định xã hội riêng, tuy nhiên tồn tại những giống nhau để xảy ra ngộ
nhận có một xã hội đương thời như thế. Ta nhận ra, kể cả nhận thực
giống nhau này không đồng nghĩa có một xã hội hiện nghiệm có thể
tác động đến đời sống cá nhân từ suy nghĩ đến hành vi thực tế. Duy
có sự tập truyền qua giáo dục xã hội, chẳng hạn các truyền thống
địa phương, bản sắc dân tộc, môi trường văn hóa và kể cả chế độ,
pháp luật.
Thực tế xảy ra sự phủ nhận xã hội từ những cá nhân tự do,
các cuộc cách mạng cho đến tôn giáo. Những phủ nhận này đặt trên
xác định có một xã hội là thế và cần phải như thế. Xã hội phong
kiến là thống trị tự do cá nhân, kìm hãm phát triển, cần phải cách
mạng để thành lập một xã hội mới. Xã hội hiện đại đặc trưng bởi
nền kỷ trị, các giá trị nhân văn bị phá hoại, cần đến cân đối trong
việc phát triển… Những phủ nhận trên cơ sở thừa nhận này nảy sinh do
những ý thức cá nhân đồng hóa nó với các ý niệm tập thể. Từ ấy
dẫn đến có một xã hội là thế. Ta có thể so sánh hai cá nhân trong
cùng “xã hội” để nhận thấy tồn tại và tính chất xã hội là tùy
thuộc nhận thức cá nhân ấy.
Sự phủ nhận xã hội thực chất là thay thế ý niệm này bằng ý
niệm khác trong một và những tiến trình nhận thức. Không thể dồng
nhất sự kiện với việc ý thức nhận ra thế giới, xã hội là những ý
niệm của nó chỉ về thực tại, từ đó chấm dứt tiến trình suy tư của
chính nó. Mọi thay đổi hay cách mạng xã hội như từng có là những
diễn tiến hình thức trong thế giới hiện tượng. Một khi ta nhận ra
tình trạng xã hội đang nảy sinh trong từng ý thức, những đối kháng
trong đời sống như ngộ nhận thực chất là những xung đột trong chính
tiến trình ý thức. Sự thay đổi, cách mạng phải được tiến hành ở
chính sự kiện này. Nói cách khác, một khi cá nhân đã và đang là
một xã hội, khởi điểm và kết thúc của cách mạng phải là từ nó
và do chính nó.
Ta hãy ngược về ngọn nguồn để tìm xem cái gọi xã hội đã nảy
sinh như thế nào? Trong xác định người mẹ, đứa trẻ vừa sinh là một
đứa con. Trong xác định khác, đó là thành viên mới của gia đình.
Trong một xác định khác nữa đó là công dân tương lai của nhà nước.
Như vậy, có một trường xã hội được thành lập ngay khi sự xuất hiện
con người. Có một khả năng ý thức đang và sẽ được cung cấp cho những
ý niệm vốn ở ngoài nó. Ở đây những cá nhân chung quanh không bao giờ
tính đến sự chấp nhận hay phản đối của con người vừa xác định.
Điều này do tính chất máy móc trong ý thức người trưởng thành, kể
cả sự thụ động trong ý thức đứa bé. Sự xác định cá nhân và cũng
là xác định xã hội từ nó sau này chỉ là những tập truyền. Đời
sống con người là một tiến trình bưng bít từ khởi thủy. Sự phản
tỉnh cho tri nhận toàn thể tiến trình là khó thể xảy ra. Trên phương
diện khác, cái gọi cá nhân là vô nghĩa do sự tạo thành phi cá nhân
của nó. Suy nghĩ độc lập nói riêng, đời sống tinh thần nói chung là
ảo tưởng do sự trừu tượng của những ý niệm. Từ chiều hướng này,
nơi đâu có xác định cá nhân nơi đó là một hiện tượng lệ thuộc như
những hoàn cảnh sản sinh nó.
Nhắc lại rằng diễn giải nhằm thông đạt những ý niệm tạo nên
một vấn đề xã hội. Mục đích là chấm dứt những ý niệm. Ta không
dừng lại ở một ý niệm nhất định, từ ấy như thông lệ đi đến thiết
lập những mô hình mới về nó. Một khi ý thức nhận ra sự vô nghĩa,
tính chất chia rẽ trong xác định cá nhân, điều tiếp theo là giải trừ
cá nhân từ những tập quán suy nghĩ đến lề thói tình cảm trước đó. Một số tôn giáo có cùng
nhận thức. Tuy nhiên, đến lượt nó tiếp tục tạo ra những ý niệm mới:
sự bình đẳng, tình bác ái, nghĩa huynh đệ…Tính chất cá nhân dường
như được xóa bỏ nhưng thực chất
chỉ là sự đồng hóa với một ý niệm lớn hơn nó. Một trong những sinh hoạt tôn giáo là chuyển
những ý niệm này thành tâm niệm cá nhân. Cá nhân vẫn còn lại qua
bất kỳ đồng hóa nào: theo ý Chúa, là tín đồ Thanh giáo, các khuôn
mẫu chính nhân quân tử…Trên phương diện khác, phủ nhận xã hội ở tôn
giáo lại nảy sinh một xã hội trong nó qua chia rẽ giáo chủ, tín đồ,
giáo chức, giáo phẩm. Tức rằng, cái gọi xã hội đã tái sinh ở hình
thức có vẻ tế nhị và ít trần tục hơn so với những biểu hiện thế
tục, tuy nhiên là cùng tính chất. Lại có nhận xét rằng, sự hình
thành cá nhân là tất yếu trong quan hệ xã hội. Nhưng, như đã nhìn
nhận tính chất trói buộc của sự việc, giải trừ cá nhân là điều
không thể tránh khỏi trên phương
diện khác. Cái gọi xã hội trở nên áp chế đối với nó. Xung đột
giữa ý muốn từ cội nguồn ý thức với những quy chế, pháp luật, đạo
lý xã hội. Do ngộ nhận về một xã hội ở ngoài nó, phản ứng trong
những trường hợp trên sẽ là thủ tiêu về mặt vật thể, chẳng hạn
việc giết người. Mặt khác, trong ngộ nhận có một xã hội là thế
dẫn đến những tìm kiếm triết học cho một bản thể xã hội. Nó được
đồng nhất hoặc xem như biểu hiện của đạo, là ý muốn Thượng đế, là
nguyên lý túc lý. Do vậy trực nhận xã hội như hiện trạng, tri nhận
toàn thể cơ cấu hình thành cá nhân là kinh nghiệm thiết yếu cho mọi
tiến trình nhận thức. Với trình độ nhận thức vừa đạt được, có thể
nói rằng không có một xã hội nào đó để xây dựng hoặc cải tạo. Xã
hội nguyên thủy, xã hội phong kiến, xã hội tư bản… chung quy là những
tên gọi rỗng nghĩa. Khẳng định sự phát triển xã hội, quy vào lẽ
tuần hoàn, kỳ vọng một xã hội đại đồng là những ngụy tín bởi lẽ
xã hội có bao giờ tồn tại?