Thứ Tư, 9 tháng 3, 2016

AN PHA VÀ ...-LINH ẢNH

13- ANPHA VÀ …


    …bây giờ là một giờ trưa. Trong khi xúc tiến việc xuất bản hãy còn những thời gian trống. Tập tùy bút do vậy nảy sinh thêm vài trang cuối. Bắt đầu từ mùa hạ, giờ này trời đã sang thu. Những đêm trăng sao và lại nỗi buồn da diết. Về khuya,  tiếng động của phố xá đã lặng hẳn. Chỉ còn tiếng côn trùng …Duyên cớ gì tôi viết ra những dòng này?
   Có vài ý tưởng và quan tâm mới. Việc biểu lộ có thể là tự nhiên trong một sự vận hành. Nếu không viết ra chắc hẳn tôi phải tìm một người đối thoại nào đó.Nói cách khác, viết lách là một lối ra của tâm trí.Tôi sẽ viết một cách tự nhiên như những gì đang có trong đầu óc. Việc làm này là một cách tiết kiệm năng lượng nhất. Lập ra một bố cục, có thể hợp lý và tiện cho việc theo dõi của độc giả nhưng mặt khác nó không cho độc giả chứng kiến trực tiếp một trạng thái tâm trí. Độc giả giả định đang xem những gì ở một hậu trường. Một hình ảnh khác, thức ăn đang trong quá trình nấu nướng….
  Tôi cũng hy vọng rằng khi đến những trang cuối này nỗi buồn sẽ  chuyền hóa hẳn!
   Sự kiện đầu tiên, tôi vẫn rèn luyện thư pháp mỗi ngày.
Tôi đang hướng đến một phong cách nghệ thuật. Trong khi thiền định tôi trông thấy những cái vảy rồng. Tôi không hiểu từ  đâu ra những hình tượng như thế. Và tôi quên đi. Vài ngày sau, trong khi viết, qua một lúc tập trung tôi đột ngột nhận ra đường nét những cái vảy rồng.





Như vậy, khoảnh khắc khi thiền quán, ý thức có thể là đi trước so với hiện thực của giác quan. Những hình ảnh
của thiền quán là nằm trong một tầm sâu của thế giới thực tại. Giác quan thông thường chưa chạm đến tầm sâu này.Nói khác đi, thế giới hiện thực là những trạng thái biểu kiến của một tầng ngầm bên dưới. Sự chạm  đến tầng ngầm này là có thể hay không tùy thuộc vào sự quan tâm và cường độ của ý thức…
   Thay vì tôi đang rèn luyện thư pháp mà như một  thầy thuốc. Khi ấy, đối tượng  sẽ là vài vị thuốc nào đó. Thiền quán sẽ mở ra các đặc tính của dược vật. Không cần thiết phải dùng đến lưỡi tôi vẫn cảm nhận vị ngọt, màu vàng của Ngọc trúc.Sự thiền định đến mức sâu xa, tôi sẽ nghiệm ra công năng của Ngọc trúc. Bổ Âm, tính mát….
    Rồi, ta hãy đi tiếp một đoạn, thay vì vị Ngọc trúc trước mặt, khi ý thức tôi nghĩ đến là có nó!...Điều này mở ra nhiều phương diện. Về phương diện nhận thức ta đạt đến một cái nhìn toàn thể. Ngoại vật Ngọc trúc là ở trong cái tôi đó….
   Trên phương diện khác, thuộc về công năng, ta có thể thay vì khảo sát có tính chất quy nạp mà là trực cảm, trực nhận các đối tượng? Thay cho việc phân tích Quế chi bằng hóa, lý…trong sự thiền quán ta có thể nhận diện màu xanh dương của nó. Sự vận hành của quế chi trong cơ thể? Nói nhanh những điều này, sự cảm nhận như vậy không có ý đồ thay thế các khảo sát khoa học. Nó chỉ là một định hướng nhanh thay cho các thao tác ngoại suy…
  
    Trạng thái tự tại là không có ý nghĩ. Ý thức có đó nhưng nó khộng vận hành theo các thói quen thường lệ.
Đó là sự quán chiếu. Một khi ý thức rơi trở lại các suy



nghĩ thường nhật sẽ có nhiều hiện tượng xảy ra. Một trong những hiện tượng đó là cảm giác về sự cô đơn tuyệt đối. Sự cô đơn này không phải một trạng thái bị bỏ rơi hay không còn ai thân thích. Cái cô đơn của :
   Tiền bất kiến cổ nhân
   Hậu bất kiến lai giả…
   Trong liên hệ với cái Tự tại tôi xin hệ thống một cái nhìn trong khi đọc Krishnamurti.Hình ảnh minh họa là những gì K nói như một tấm lưới. Điều tôi trình bày là sợi chỉ trong tấm lưới đó. Cái Tự tại, Thiêng liêng, Siêu việt hay Vô lượng là có đó. Nó tương tự như bầu trời hay không khí quanh mỗi con người. Nghĩa rằng, bao giờ nó cũng ở đó. Đường đến là sự chấm dứt các ý nghĩ thường nhật. Ý thức còn lại ở đó. Nó là một sự quán chiếu.
   Trong các phương thức quán chiếu việc quán chiếu âm thanh sẽ là phương tiện hữu hiệu. Nói như K đó là việc lắng nghe. Trong sự lắng nghe, não có một khí cụ chống đỡ trước vô số tác nhân bên ngoài. Sự lắng nghe đến mức độ sâu xa là không có âm thanh. Âm thanh, những gì nghe nhận thực ra là một tình trạng dính mắc của giác quan trước đối tượng…
   Trong sự quán chiếu này,mặc nhiên hành giả ở vào trạng thái tự tại. Sự ngự trong trạng thái này, khi tâm trí không bị rơi ra các biên dao động của nó, sẽ là cái tự tại.
   Ở đậy ta triển khai trên vài phương diện để làm rõ thêm cái Tự tại.
   Một trong những vấn đề của triết học là nguyên nhân đầu tiên  của thế giới hiện thực. Đây là một giả đề của nhận thức. Ý niệm nguyên nhân đầu tiên là một ý nghĩ,một sản phẩm của ý thức. Ta hình dung một vòng





tròn khép kín của ý thức. Nguyên nhân đầu tiên là một điểm đánh dấu của ý thức trên vòng tròn đó. Vòng tròn này không có trong tự thể, cái tự tại. Chân lý ở chỗ khi ý thức quán chiếu chính nó. Một trong những hệ quả của quán chiếu là sự tiêu hủy vòng tròn này. Khi đó, cái gọi nguyên nhân đầu tiên sẽ không còn tồn tại.
    Minh họa rằng, cái gọi sáng và chiều là có thực trong một tri nhận nào đó. Tri nhận này là thực trong tính chất cục bộ, giả kiến của ý thức. Nó gắn với một điểm quan sát nào đó. Trước hết đó là tính tương đối.Một quan sát ở Sài gòn định vị là buổi chiều. Cũng trong thời điểm đó,một quan sát ở Cali sẽ là buổi sáng.
  Khi đặt quan sát trong toàn thể, chẳng hạn gắn với mặt trời, các khái niệm sáng và chiều là không tồn tại.
   Một vấn đề khác, là bỏ ngõ như sau: vì sao ý thức lại có tính chất định hình,định xứ? Tại sao tôi không nhìn vào khoảng không trước mắt, mà liên tục rơi xuống hoặc bị bắt dính bởi cái hoa, một khuôn mặt, một tiếng nói?
  Tính chất định vị, vật thể này của ý thức là một trong nhiều khả năng của nó. Tức rằng sẽ có nhiều khả năng khác của ý thức. Ở chỗ khác đó, chẳng hạn các Đức Phật là siêu việt? Tính chất định vị này biểu hiện cấu trúc chung của bộ não con người với những năng lực hạn định của nó?
   Sự định vị này càng bị dính chặt là đồng nghĩa với chậm chạp, quán tính. Điều chắc chắn là trí huệ,sự thông minh chỉ có khi ý thức tự do di chuyển trước vật thể bên ngoài,và sau đó là các vách ngăn ý niệm bên trong nó.
   Sự dính mắc, hay cơ chế định vị này, vốn không phải sự định tâm của hành giả, có thể khắc phục.Điều này là các quá trình tu tập…
  





   Vẫn trong mạch Krisnamurti tôi xin trình bày vài tiếng vọng khác. Có một thị kiến chờn vờn khó nắm bắt mà tôi đang cố gắng thể lộ. Điều này xảy ra trong khi đọc The Ending of Time vào lúc K đối thoại với David Bohm về vũ trụ.
    Thiền quán , hiểu theo nghĩa trầm tư, xem xét một cái gì đó. Trong  trầm tư là một sự soi sáng vào đối tượng.
Sự soi sáng này nằm ở cấp độ bản thể, nguyên ủy. Chẳng hạn tôi đang thiền quán một bông hoa. Không phải việc ý thức của tôi định danh đây là hoa mai, có năm cánh,màu vàng nhạt…Những điều như vậy là ý thức tiếp diễn chính nó một cách máy móc và nông cạn. Trong thiền quán,thoạt tiên là các giác quan của tôi hướng về đối tượng, chỉ thuần là đối tượng. Sự đình chỉ của ý thức với những định danh, phân loại,xếp hạng của nó…Sau  thời gian như vậy, giữa tôi và cái hoa mai đó là một. Những gì là hương hoa,màu sắc , kể cả nhánh lá và gốc rễ của cây mai cũng chính là cái tôi đó. Một trạng thái tương thông.Một sự lơ đễnh, tán tâm của tôi cùng một tác nhân bên ngoài nào đó xâm chiếm trí não của tôi. Ngay lập tức tôi trông thấy những cánh hoa rũ xuống…
   Như vậy, qua sự soi sáng của thiền quán, đối tượng biểu lộ  hiện diện và những khả tính của chúng. Một khi không còn sự phân biệt người thiền quán thì hiện trạng là một  biểu lộ trong tự thể…..Nền tảng của tự thể này là cái không, cái bất tri.Ta hãy xem một bàn tay đang cầm ly trà.Đó là một trạng thái xuất lộ. Việc định vị, Bồ Tùng Linh đang cầm cái ly trà không phải là thực tướng sự việc. Cái đó,chỉ là ý thức của tôi đang tiếp  diễn các hiểu biết từ trước của nó. Nó là một kiến thức đóng kín trong






cái tôi quan sát. Đây là điều mà ta nhầm tưởng là thực tại….Thực tại,chính là tiếp điểm khi ý thức phóng đến và định diện bàn tay đang cầm ly trà. Lúc này, ta đừng hỏi ý thức của ai đó?
   Sự thiền quán không phải một đối tượng mà là nhiều đối tượng cùng lúc là toàn thể, vũ trụ. Nói cách khác,có một vũ trụ đang xuất lộ.
    Rồi thì, ta tiến đến điểm mà K khai thị. Vũ trụ đang trong thiền quán….
   Điều mênh mang này cần nhiều khai phá và lĩnh hội.
   Điều có thể giải trừ  là các hiệu ứng tâm lý. Ta vẫn thường dính mắc trong việc nhìn nhận thiền quán gắn với một cá nhân nào đó. Điều này là không thực như đã trình bày về thói quen, sự tương tục  của ý thức…
   Một đoạn cuối mà chúng ta đi tiếp.Cái tự tại, cái đang là đang biểu thị nó. Là tôi, anh, một cái hoa hay tiếng chim hót.Có thể nói rằng,chúng ta là những biểu thị. Hình dung các cá thể là bọt sóng của những dòng chảy trong đại dương. Nó biểu thị các dòng chảy và là cả đại dương ấy. Tuy nhiên không có sự tương đồng….
   Cá thể K là một hiện tượng. Trong vô số các trạng thái của hiện tượng có trạng thái mà K thể nhập trong cái đang là,cũng tức là vũ trụ. Khi ấy,chúng ta chứng kiến văn cảnh mà K nói: cái đang là nói về cái đang là….

   Ta hãy lùi lại rất xa  trước khi  tiếp tục tiến đến. Một trong những mơ ước thời  thanh xuân của tôi là được viết về một trong hai nguyên mẫu: Đức Phật và Đức Ky tô.Mơ ước này không đến mức độ thôi thúc và tôi đã lãng quên sau đó. Vài dòng cuối này tôi muốn thực hiện  phần ít những ước mơ của mình… Ý tưởng an ủi hiện giờ của tôi là, trong công việc hiện  tại tôi có thể giải tỏa cho một





tiếng thở dài xa xôi nào đó. Tươi sáng hơn, trong khi tôi trầm tư những gì đang hiển hiện trước mặt, sẽ là sự hô ứng cho một màu sắc trong khung vãi. Bởi vì, thế giới là tương thông và diễn dịch….
   Kinh nghiệm về thời điểm giác ngộ của Đức Phật. Trong đêm cuối sau 49 ngày thiền định Đức Phật tuần tự chứng đắc. Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,…Sự chứng đắc này chỉ ra vô số phương diện. Có một phương diện  ta có thể lĩnh hội đó là tính chất lũy tiến của một quá trình giác ngộ. Ta nhận ra, sự bừng nở tâm trí sau một chặng dài thao tác và đào luyện. Tâm trí vận hành với các gia tốc của nó. Đây không phải là  sự phát triển theo một nhịp điệu đều đặn. Ta hình dung sự nở của những đóa quỳnh. Búp của nó kéo dài trong khoảng thời gian nửa tháng. Hoa nở trong vài giờ và ta nhận ra sự chuyển động mãnh liệt của quá trình này….
   Kinh nghiệm giác ngộ này sẽ tái hiện trong những hành giả khác. Với những cấp độ khác. Chẳng hạn với một hành giả X sẽ dừng ở mức độ thiên nhãn thông…Kinh nghiệm toàn mãn của Đức Phật mở ra vô số phương diện mà hành giả có thể truy tìm, thể nghiệm. Một cái gì đó thuộc về vũ trụ đã xảy ra như vậy? Phải xảy ra như vậy?
   K phỏng đoán sự hình thành tâm trí Đức Phật là phải được tích lũy sau vô số kiếp. Một điều kiện khác, đó là sự tra vấn liên tục của tâm trí….Sự tra vấn này hướng ra nhiều phương diện. Sự tra vấn, cũng tương tự việc lắng nghe, một trong những tác động của nó là nhiếp dẫn những nguồn mạch năng lượng bên ngoài.Nói khác đi, trong hành vi tra vấn, quán chiếu hành giả đang thực hiện một hành vi vũ trụ….
 





     Lời dạy của Đức Phật đã chỉ sẵn những con đường mà hành giả muốn đạt đạo. Vậy thì, tại sao ta cần phải truy tìm những kiến giải và nhận thức mới? Điều này thực đơn giản, trong khi truy tìm ta lặp lại chính con đường mà Đức Phật từng trãi. Nói cách khác,thay vì tiếp nhận một hệ thống tri thức,chúng ta đang thực hiện nó bằng nỗ lực của thân và tâm. Sau một chặng đường ta có thể đạt lại hệ thống tri thức đó, tuy nhiên nó đã như một phương tiện. Nói như vậy là giải trừ tính chất sở tri chướng trong liên quan đến sự việc….Nói khác đi đó là một sự vượt qua liên tục…
   Một hướng quan tâm khác. Anhxtanh nói không phải cảm ơn nhà bác học mà hãy cảm ơn Đức Phật. Nghĩa rằng, tất cả đã có từ tam tạng kinh điển. Tuy nhiên, con đường nào dẫn đến Anhxtanh và thuyết tương đối? Ta chứng kiến một vườn hoa,nơi phát tích, và một cành hoa cắm trên bàn. Đã xảy ra những vận hành và thao tác nào mà cành  hoa đó có ở trên bàn? Làm thế nào một phật tử, hoặc một học giả Phật giáo khác có thể tìm ra những lý thuyết tương đối khác? Thay vì việc dừng ở các chú giải kinh điển và thực hành đạo hạnh? Nói như vậy,không hàm nghĩa bất kỳ sự phê phán nào. Chỉ là việc ta có thể khai triển, làm phong phú và sinh động cho một tàng kinh các?
  

…Cá nhân là những tảng băng trên một dòng sông. Phần chìm của tảng băng là những gì cấu trúc và quy định sự hiện hành của nó. Chú ý rằng đây là một hình ảnh so sánh tương đối. Tảng băng này nằm trong những tác động khác, nắng, gió, các va chạm…Quan hệ xã hội của





hai người trong sâu xa là sự tương tác của cả phầm chìm bên dưới. Những khí chất cá nhân,sự di truyền của dòng tộc, phong tục xứ sở…Cá nhân có thể giao tiếp thuần trên bề nổi của nó, nếu như là những người khách qua đường. Hoặc nữa sẽ là sự va chạm,tương tác của cả phần chìm bên dưới. Tôi đang có một đối tác là người Nhật. Quan hệ của tôi và người đó sẽ là tương tác của truyền thống võ sĩ đạo và một cái gì là “ thuần Việt”.Nó đang xảy ra trong cuộc nói chuyện mặc dầu cả hai không đề cập đến. Sự tương tác này dẫn ra nhiều vấn đề….
   Sự đồng thuận, đồng cảm có thể là điều cả hai mong muốn. Như vậy, tôi phải tính đến cả phầm chìm bên dưới. Trong phạm vi hẹp, tình trạng lý tưởng, nếu như cả hai không tiềm ẩn một tay chuyên chế, sẽ là sự tan băng của cả hai. Khi đó chỉ thuần là một dòng nước…
   Cần chú ý rằng những nhận xét này chỉ có tính tương đối khi hướng về xã hội. Một nền văn hóa tương lai, nếu thực là văn hóa phải hướng đến việc giảm thiểu các khác biệt. Tức sự làm tan băng…
   Văn hóa là cần thiết, kể cả mức độ bức xúc của nó. Những đường biên, là phong tục, ngôn ngữ cần phải mở rộng dần. Lịch sữ trong các phương chiều vận hành của nó, có một phương chiều như thế. Một thế giới hòa đồng chỉ thể tiến đến khi những bước tiến đầu tiên của nó, chỗ đứng dầu tiên của nó không bị kết dính quá sâu vào những gì là bản địa. Điều này không phải là sự chối từ. Chỉ là việc đi sâu vào các cấu trúc nguyên thủy. Sự duy nhất về bản địa. Bản địa ấy là tinh thần trong vô số ràng buộc và dính mắc của nó….

  




    Từ những duyên cớ nào đó,thật diễm hạnh cho người viết, bạn đọc đang cầm tập tùy bút này trên tay. Như một buổi trà đạo chúng ta sắp chia tay một cuộc hội ngộ.Tôi đã nói quá nhiều hay nói như vậy là chưa đủ. Tính chất sơ lược của diển giải? Những bố cục xộc xệch và tùy tiện?...Những thông tin,mà tôi xem như là các dữ kiện tinh thần cho một quá trình xem xét  của bạn, đã trình ra quá ít ỏi? Hoặc thừa đi như một nhánh lá rườm rà?
   …Rikel trong Những lá thư gửi cho người thi sĩ trẻ tuổi có viết, tác giả có thể nói như vậy vì đã từng lê lết trong đời sống. Im so so…Chàng ta, sau bao nhiêu mưa nắng vẫn giữ lại một ít nét thanh tú trong cái nhìn.  Tâm hồn thì vẫn còn phảng phất chút hương vị thanh xuân. Một đôi lúc thất vọng quá, trong mơ tôi lại nghe ai đó nhắc. Hãy yêu đời và thấy cuộc sống tươi sáng…Lời nhắc từ thinh không mà tôi đã nhận, cùng với đó là sự chuyển hóa tâm trí. Tôi đang thực hiện một hành vi hồi hướng về cuộc đời,về phía bạn….
  
   Giờ lại một đêm thu. Vài ngày trước đây,  có một giấc mơ mà tôi hãy còn ngẫm nghĩ. Tôi đangở trong một căn phòng hẹp. Bên ngoài là những bóng đen đang định tiến vào. Tôi cảm giác về  tình trạng nguy hiểm sắp ập đến. Tôi cố gắng lùi về một bức tường của căn phòng. Ở đó có một khung cửa sổ. Bên ngoài khung cửa là  vùng sáng  xanh. Tôi nghĩ rằng việc vượt thoát qua khung cửa sẽ là giải thoát. Đột nhiên một khúc nhạc nổi lên. Đó là tiếng đàn tam thập lục.Tôi cảm giác người chơi là một cô gái…Khúc nhạc kéo dài chừng vài phút và theo một tiết tấu hơi nhanh. Trong mơ tôi nhận ra khúc nhạc chơi ở cung trưởng và cả những bồi  âm của nó. Tâm trí tôi đột nhiên thay đổi sau khi nghe đoạn nhạc. Tôi nghĩ đến những quan hệ, trách nhiệm…
  



   Tôi thức giấc.Nếu như có khả năng ký âm tôi sẽ ghi lại đoạn nhạc đó.Lúc ấy là ba giờ sáng….Khúc nhạc này từ đâu mà có? Một hình ảnh trong mơ ta có thể cho là ảo giác, tuy nhiên đây là khúc nhạc trọn vẹn. Căn nguyên khúc nhạc là một bí ẩn. Trong khi nó quá là hiện thực.
  Những quan tâm của tôi hướng về người khác, những người khác…
   Một phương diện của giấc mơ. Sự hòa hợp của âm nhạc là tuyệt hảo trong những gì giác quan có thể tri nhận. Sự hòa hợp mà tôi, hay  người đọc giả định đang tìm kiếm là  quà tặng của cuộc đời sau những nỗ lực, mệt nhoài.  Là một sự ngẫu nhiên tựa như ta được nghe tiếng gió réo qua những tàn dương, tiếng lòng Schubert đang thể lộ trong khúc nhạc chiều?
   Sự trỗi dậy của khúc nhạc ngay tức khắc trong giấc mơ làm tôi nghĩ về những gì là hô ứng, nhiệm mầu…

                                                            Ngày 29/10/2009




  
  
  





Thứ Ba, 8 tháng 3, 2016

ÁNH SÁNG- LINH ẢNH

12-ÁNH SÁNG
  
   Tận trời cao
   Chim ưng bay lượn
   Ven rừng xa xăm
   Đàn nai đã gộ
   Yêu quá mùa ơi yêu bao tiếng xôn xao…
                                                          Apôliner
                                         
  
    Trong các giáo trình phổ biến kỷ  thuật tác giả Lưu Triều Nguyễn làm công việc như sau. Thay vì chỉ người đọc từ A đến B, tác giả chỉ ra đọan AC, AD…Sau một lọat thao tác như vậy tác giả mới thành tựu con đường AB…Sự rèn luyện thao tác tư duy như vậy, sẽ giúp người đọc nắm bắt chính con đường. Nói cách khác, việc thành tựu AB chỉ  còn là một thao tác nhỏ. Thay vì chỉ ra một mục đích, kết quả là một kỷ thuật, tham số nào đó, tác giả chỉ ra con đường. Và sau rốt, người đọc có  thể tự mình vạch ra những con đường.
    Nó tương tự việc các tu sĩ Thiếu Lâm sau việc rèn luyện dài lâu những công việc như chẻ củi, quét nhà…tự dưng khí công, nội công xuất hiện…
    Tôi đã tiếp thu những gì từ các cuốn sách của LTN hơn là một tài liệu kỷ thuật. Việc rèn luyện các thao tác  tư duy…Trong đời sống, hiếm khi  ta có thể đi ngay từ A đến B. Việc chấp nhận và học hỏi những AC, AD làm ta thể nhập vào những con đường….Rồi thì, AB tự khắc xuất hiện…
   Nó cũng dạy ta một sự kiên nhẫn và thấu đáo…
  



   Một phương diện khác, những tác phẩm của LTN là một sự kết hợp của khoa học và nghệ thuật. Văn từ và hình ảnh…Ta có thể nhận ra những gì thi vị trong một trang viết “: Hướng chiếu sáng chuyển động cho biết đó là đèn pha ô tô lóe sáng trong đêm hay những chiếc đèn hiệu màu cam xoay tròn trên nóc xe chuyên dụng tại các công trình xây dựng. Sự khuếch tán chuyển động có thể cho biết nguồn sáng đang đến gần hơn hoặc mặt trời đang lộ dần từ bên dưới các đám mây. Bóng đổ chuyển động có thể là những chiếc lá cọ đung đưa trong gió hoặc có thể là bóng đổ của chính bạn quét trên mặt đất khi các ngọn đèn pha  xe hơi vụt qua…”
   Cái  đẹp và nghệ thuật thì ở mọi nơi mọi chỗ. Biên giới các phân loại  sẽ dần nhòa đi…Một  học hỏi khác, cách sử dụng màu trắng trong chiếu sáng hay hội họa….Ta cảm nhận ở đây, màu trắng gắn  với các chất liệu như hồ, sữa, lụa…Những gì mềm mại, thực dưỡng và hóa  ra quyến rũ đặc biệt!
  Kinh Dịch hướng ta điều ấy trong quẻ Bí chỉ sự trang sức. Trang sức sau cùng, tương ứng hào trên cùng là màu trắng. Không lỗi và được thỏa ý….
  Tôi trích dẫn như vậy để chỉ rằng có thể thấy tìm sự tương thích ở mọi văn bản, quan điểm…Từ cuốn sách cổ xưa nhất cho đến một giáo trình hiện đại…Việc chỉ ra sâu xa hơn nữa, là tiếng nói của chính màu trắng! Nó biểu lộ sự có mặt của nó. Có đấy! Là học hỏi, tham  dự hay hôn phối tùy theo  khấu quyết và tâm quyết!...
   Và bây giờ….tôi trở lại những gì muốn trình bày  trong những trang viết cuối này.
   Những kinh nghiệm dường như lạ, tôi đã kể lại một ít trong Nguyên bạch...Sự xuất hiện sau một giai  đọan tiếp





theo là tôi chưa từng kể. Tôi muốn làm công việc nhìn nhận và hệ thống lại. Đây là  một sự học hỏi. Với độc giả tôi xin trình ra như những dữ kiện trong đời sống và cần thêm những khảo sát minh triết mà tôi chưa thể thực hiện…
   Sự xuất hiện ánh sáng lần đầu là khi viết Nguyên bạch. Khi ấy là màu vàng. Nó rãi xuống trước mặt hoặc  vút  lên đột ngột trong không gian quanh tôi. Những khi ấy thường là thi hứng hay xuất thần!...Màu vàng này dịu và nhẹ như ánh sáng từ các ngọn đèn trang trí …Khi viết Quẻ Khảm nó là màu trắng và sắc lại thành một vạch nhỏ chừng vài dm. Nó xuất hiện nằm ngang trước mặt tôi và sau đó là  liên tục gõ phím…
   Trên những con đường tôi đi dạo  trong thị trấn, làng quê là một khối cầu hay hình đĩa có  màu xanh trắng. Nó cách tôi chừng vài chục  m….
    Những gì là mặt trái của hiện tượng,  lúc này tôi trong tình trạng sức khỏe suy giảm. Tuy nhiên là hòan tòan tỉnh táo trong các nhìn nhận.Những gì tôi trông thấy không phải là ảo giác…Một buổi sáng, trong khi đun bếp tại quê, lúc đó là năm 2004, tôi trông thấy một bộ  xương nằm ngang từ ngòai góc vườn bay vào bếp….Một thóang lặng và sự khiếp đảm của tôi lúc ấy…Đại bạch tán cái! Tôi nhớ  là mình đã đọc câu chú  vào lúc ấy! Bộ xương bay ra…
  Một buổi sáng khác, tôi cùng người bạn qua một quán cà phê.Trên đường tôi  nói việc cảm ra những gì lạnh lẽo đang xuất hiện dần trong tôi lúc này. Trong khi ngồi tại








quán, châm thuốc …Một bộ xương khác, màu  xám, bay vào chậu cây cảnh trước mặt. Tôi im  lặng và không nói ra những gì trông thấy cho người bạn biết. Tôi lập tức duội điếu thuốc và bộ xương bay đi…
      Ta hãy tinh tấn và tiếp tục quán chiếu.Một kinh nghiệm khác là, vẫn trong thời gian đó, một buổi tối trong nhà người thân tôi bước ra sân chuẩn bị về. Đột ngột tôi nhận ra mình đang đứng trong một nấm mộ và bộ xương lại vụt qua trước mắt! Tưa như tôi đứng trước cái chết và cái chết đang có thể thi triển nó vào một đối tượng. Tôi nhớ rõ là tôi xin  chấp nhận những gì đang xảy ra với mình. Không để tác động lên ngừời khác…Và câu chú!...
  Những kinh nghiệm này tôi xin nhắc lại có thể là bình thường hay lạ thường với các hành giả khác. Tôi không biết được. Sự khiếp đảm, chóang váng của tôi có phải là một trình độ tu chứng chưa đến? Một cái tâm chưa định và siêu việt? Tôi chỉ xem như môt dữ kiện cho người đọc xem xét…Việc bỏ sót hay  lưu lại một ẩn khuất nào đó sẽ làm cho người đọc không nhận ra tòan cảnh. Tôi cũng xin kể rằng câu chú Đại bạch tán cái thỉnh thỏang tôi có đọc vào vài trường hợp khẩn cấp khác. Một hình dáng giống như một cái dù lớn màu trắng chừng vài m phủ xuống chung quanh tôi…
     Trở lại hiện tượng ánh sáng. Việc xuất hiện khối màu trắng đỏ trong việc đọc kinh Lăng gìa như lúc đầu tôi đã kể.Về sau, trong  những năm gần đây tôi thường thấy những hình ảnh đó nhiều hơn. Thường xuất  hiện hơn cả








là những những luồng khí trắng xanh, trắng đỏ. Và hình dáng  một cái cầu vồng. Nó  xuất hiện với khỏang cách chừng vài  trăm m cho đến lúc nhập vào thân thể…
   Cũng đôi khi là một cái hoa sen vàng có kích thứơc  chừng một m….xuất hiện quanh không gian tôi đang sinh họat hay làm việc…Sự xuất hiện những hình ảnh này thường là vào lúc tôi tập trung làm một công việc tinh thần hay trong thiền định…
     Hình ảnh sau cùng tôi muốn giới thiệu là hình ảnh Đức Phật ngự trên một đóa sen vàng. Có sự xen kẽ các ánh vàng và ánh trắng  trong hình khối đó. Cách chừng vài m trên đầu…Ta có thể nhận ra những nếp vàng từ vai chảy  xuống …Hình ảnh này tôi trông thấy vào một buổi chiều trên đường PVB… Tôi chỉ lược qua vài hình ảnh như vậy. Những câu hỏi là: bản chất hiện tượng là gì? Ánh sáng này từ đâu xuất hiện?...
    Tôi chỉ lùi lại trong một vài kiến giải cục bộ.Cái  tôi, một hiện tượng chứa đựng trong nó cái tòan thể. Tôi là ngài và là thế giới. Nói như Kirshnamuti. Một khi cái tôi này giải trừ dần, tòan thể sẽ xuất hiện…Tương tự như khi ta thực hiện việc quét dọn một mảnh sân. Sau khi những cái lá đựơc thu dọn là mảnh sân trong tự thể của nó. Lớp đất ẩm. Những  hương vị của đất….
   Ánh sáng tự thể  luôn tồn tại. Những hiện tượng ánh sáng cục bộ, như các mô tả,  xuất  hiện sau khi  đã thực hiện một sự quét dọn bản thân nào đó. Sự ngạc nhiên của tôi, vốn  gắn với một giả kiến về bản thân….Khi giả kiến này hòan tòan lọai trừ sẽ chẳng còn sự ngạc nhiên trong cái tình thế vạch ra  cách  biệt giữa “cái tôi” và đối  tượng. Khi ấy chỉ thuần là một sự quan sát!
   Lại nữa, nhằm  khắc phục  cách nhìn nhận đang là một ảo giác tôi xin nhắc lại rằng cùng với ánh sáng là các cảm giác khác trên thể xác. Những luồng khí ấm và dễ chịu lan  tỏa trong tòan bộ cơ thể…
  

   Có nhiều tầm mức. Cái tôi là một tình trạng ánh sáng. Nó  tương ứng một ngọn đèn điện với những cường độ và màu sắc khác nhau tại tâm điểm.  Suy nghĩ hay thiền định là những sợi tóc.Không gian được chiếu  sáng chung quanh. Cá nhân, ánh ra không gian chung quanh nó.Tiếp nhận đầu tiên sẽ là những ngừơi thân, đồng thanh tương ứng…
   Một cái chao đèn trên nguồn sáng ấy là tình trạng cá nhân phong tỏa nó theo một chiều hướng, là quan tâm, sở thích hay tiểu sử..Phía trên chao đèn tôi không thấy gì cả, hay là một vùng mờ…Ví dụ, trong sự quan tâm của tôi không nhắm đến các lĩnh vực như Địa lý, một người hàng xóm…Vùng này là một vùng mờ…
   Khi mà những cái chao đèn tháo dở, tính cá nhân của tôi  mất dần đi. Đó là một không gian đồng phương. Một cái hình cầu…Sự liên thông tỏa sáng của tâm điểm sẽ là quét rọi trên mọi chiều hướng…
   Hãy còn một ít định xứ và định dạng. Ta hãy tiếp tục tinh tấn và kham năng!..Những cái bóng đèn này tiếp tục quét rọi chính nó: chất liệu kính trong và cứng. Một cái hình cầu…Sự quét này tiếp diễn và giải trừ hay thu nhiếp…
   Ta nhận ra một tình trạng sáng đồng nhất…Cái  bóng tròn bằng kính đã tiêu hủy…Việc xem xét có tính vật lý này sẽ được bổ sung bằng một diển giãi khác. Ánh sáng  biểu trưng qua các thể dạng. Ta hãy xuất phát từ một kinh nghiệm…
 








    Tôi có mua một cái lọ  trầm trong những ngày cuối năm.Chùa  Vĩnh Nghiêm. Buổi chiều. Cái lọ xinh xắn…Buổi trưa sau đó, tôi nhận ra một ánh vàng nhạt trong không gian trước mắt. Nó dịch chuyển  từ những hàng cây xanh từ bên ngòai vào đến gian phòng.Tôi ngạc nhiên tự hỏi màu vàng nhạt này từ đâu ra…Có một tiếng nhắc: ở phía trước. Tôi nhận ra màu sắc  cái lọ là màu vàng nhạt như ánh vàng vừa  quét lúc nãy…
   Như vậy là, ánh sáng không chỉ ngưng tụ  trong một con người mà là ánh sáng trong tòan thể. Cùng với đó là ngôn ngữ! Có một tiếng nói của ánh sáng. Hay ít ra, ánh sáng không thuần là một hiện tượng vật lý như một  con lắc, đường bay một viên sỏi…Có một sự thông tin, hướng dẫn trong nó…Có một ngôn ngữ của ánh sáng.
   Thực  ra những gì mà chúng ta sử dụng hàng ngày là một sự vay mượn trong sâu thẳm. Một tình trạng sử  dụng tùy tiện và không hỏi trước…Cái nhìn này, một cái nhìn của tâm tôi là vậy. Trong khi tôi nói, việc sử dụng tiếng nói nhưng không để ý  tòan bộ căn nguyên của hiện tượng. Có một tiếng nói khác của không gian chung quanh, của ánh sáng, những cái hoa, những vì sao…những gì đó mà tri nhận của tôi không thể vươn đến được…Tôi mặc nhiên lùi lại…
   Một phương diện của vấn đề, để dễ làm rõ nghĩa ta hình dung thế này. Ta vẫn sữ dụng các đĩa nhạc, vô số đĩa để nghe Môda mà hòan tòan không hỏi qua ý kiến của nhạc sĩ…Việc mua trên các tiệm băng đĩa  hòan tòan là ước lệ! Người sử dụng khi đó chỉ là việc chi trả một giá trị vật lý, cái đĩa…Không phải là một quan hệ trực tiếp và chính thức với tác giả Môda…
 




   Cũng như vậy, việc sử dụng tiếng nói theo cách truy nguyên là cổ nhân từ nghìn đời…Rồi thì, các cổ nhân  lại nhường lại cho một cái gì đó siêu việt. Ánh sáng…
   Tôi sẽ lùi lại hay hòa tan  tức khắc khi nhận ra bên cái nhìn của mình có một cái nhìn khác.  Có một cái nhìn như vậy.  Một đôi mắt. Thuần là đôi mắt. Nó không được gắn trên một khuôn mặt bất kỳ…
      Ta hãy trở lại, đến đây ta đã nhận ra rằng có một ánh sáng và tiếng nói trong tự thể! Tôi xin nhắc lại rằng, không phải  tôi xây dựng một học thuyết hay đưa ra một hình tượng văn học. Tôi chỉ kể lại những kinh nghiệm thực với ý đồ tìm hiểu!
  Việc  mau chóng chấp nhận các quan điểm tổng thể. Hòa tan mọi  việc vào một định kiến  không phải là công việc tôi đang làm lúc này. Có những khỏang cách trong nhận thức và tôi đang tìm cách lấp kín, vượt qua những khỏang cách đó….
  Nói  cách khác tôi đang chuyển vị từ một hành giả sang học giả…Và  cần những minh triết bên ngòai …
   Ánh sáng, tiếng nói, mùi vị…trong chuỗi số này còn những gì nữa?
   Tôi lại bắt đầu từ một kinh nghiệm và những khảo sát. Ánh sáng và vật thể…Cuối năm 2008, tôi có tham dự cuộc nghênh tiếp Đức Pháp Vương Tây tạng….Một  cuộc tiếp đón trọng thể, huy hòang tại Đại tòng lâm. Sự kiện chính là các tu sĩ trong phái đòan của Pháp vương thực hiện vũ khúc để cầu an cho con người. Có bốn tu sĩ trong lễ phục ra thực hiện điều ấy. Trên một cái sân rộng trước sân Chánh điện.Các tu sĩ  trong trang phục Tứ đại Thiên Vương diễu thành vòng tròn với các vũ điệu chậm






chạp dường như những con người đi trong vô thức. Điều này cũng không khácTứ đại Thiên vương hóa thân qua các tu sĩ, thực hiện việc hộ trì  và ban phước.Những tia sáng  thanh mảnh tự trời cao chiếu xuống.Vì đã từng nhìn các hiện tượng lạ về ánh sáng nên tôi không còn ngạc nhiên trước sự việc….
 Buổi chiều Đức Pháp vương thuyết giảng về Đức Phật A Di Đà. Đức Phật Quán Thế Âm. Câu chú Úm ma ni bát mê hồng…Tôi nghe những vọng âm trong một thóang lưu ý của Đức Pháp vương: thực ra, trong bản thể không có sự phân biệt Đông tây. Ngài nói khi giải thích về thế giới Tịnh độ…
   Có vài vật ban phúc cho những người tham dự buổi thuyết giảng. Tôi nhận một tấm hình Đức Phật ADi Đà. Một sợi dây Kim cương tỏa…Sợi  dây này có tác dụng độ trì cho người mang nó…Sợi dây màu  vàng dài chừng vài dm…
   Một thời gian sau đó, vào những lúc tâm trạng bế tắc hay hòan cảnh khó khăn. Tôi nhận ra có một dòng khí màu vàng xuyên qua thân thể  tại những nơi ngưng trệ, cái vai, bàn chân. Sự bế  tắc được giải trừ…Kim cương tỏa phát huy sức mạnh của nó…Hình thể đặc, nguyên bản của sợi dây và dòng khí vàng kia có phải là một, chính là một, trong các biến dạng  vật chất của nó….
   Phương diện khác. Tôi quen một cô gái là tiếp viên ca phê. Cô bé chỉ có một quan tâm duy nhất là một người mẹ đang bị đau cột sống. Cần phải có tiền về cho mẹ!...Tôi tặng  cô bé sợi dây Kim cương tỏa như một chia xẻ với cuộc đời…Trong tâm tưởng của tôi là một vật








quý giá vừa để làm kỷ niệm vừa là vật hộ thân…Tuy nhiên, tôi đã nhận nhiều thứ và trong cái ý muốn san sẽ những gì mình có…
  Tôi nghĩ rằng mình đã không còn sự tác động của Kim cương tỏa…Một thời gian sau đó dòng khí màu vàng vẫn xuất hiện vào những lúc tôi bế tắc. Hóa ra, Kim cưong tỏa vẫn phát huy tác dụng và vẫn tồn tại đâu đó quanh tôi….
  Tôi nhận ra, ánh sáng phát từ sợi dây có một sự dao động  rất xa quanh cái vật thể ban đầu. Sợi  dây hiện giờ vẫn ở chỗ cô bé. Tuy nhiên hiện hữu trong các trạng thái của nó thì vô cùng và biến dạng. Nó phát huy tòan thể các tác dụng không qua khỏang cách…
   Cái nhìn ngược, có tính xác minh vật thể thì sợi dây ban đầu, một trạng thái vật chất, và các dòng khí  cũng đều là hiện hữu hay phiên bản của một trường vật chất sâu rộng hơn thế…
  Cái nhìn hòan chỉnh là không có khỏang  cách nào cả. Chỉ có một cái tâm đang mở rộng hay thu hẹp các đối  tượng của nó. Nghĩa là, cô bé, sợi dây vẫn còn đang ở đâu đó…Điều này,  tương tự K nói trong trạng thái một mình ta phát hiện cái tôi là nhiều người. Là tòan thể…Trong khi giao tiếp, chúng ta thực ra để lọt qua những con người. Trong trầm lặng, những con người ấy xuất hiện trở lại…Gần với thực tướng của họ hơn cả…
   Bây giờ chúng ta dịch chuyển  quan tâm lên một bản văn cổ (hay hiện đại). Ánh sáng, trong Kinh Dịch là quẻ Ly. Quẻ Ly chỉ về ánh sáng, cũng là lửa, văn minh và nghi lễ…Chùm biểu tượng này gợi ý  cho chúng ta  những gì liên quan đến ánh sáng hay là cái mà ánh sáng mang lại…
  





   Quẻ Ly có hai hào dương ngòai và một hào âm giữa. Nó là sự suy biến từ quẻ Kiền. Từ ba hào thuần dương của quẻ Kiền, vạch giữa bị đứt khúc. Vậy là hình thành quẻ Ly…
   Chú ý ngay  rằng, sự hình thành quẻ Ly còn thể đi theo những con đường khác như tính chất trùng điệp của Kinh Dịch…
   Quẻ Kiền, ta hình dung như tòan thể. Một tòan thể khởi nguyên và thông đạt. “Kiền: nguyên,hanh, lợi, trinh” (Kinh Dịch) Ý thức hữu  hạn chỉ thể thiết lập một hình dung nhưng không thể đạt đến nó. Ta cũng thể xem rằng nó như các đại lượng vô cùng trong tóan học…Ánh sáng, trong các hình tướng hữu hạn chính là sự “suy biến” của ánh sáng tòan thể. Tựa như ta chỉ nhận ánh sáng mặt trời qua các cửa sổ…Con người trong tính chất giới hạn về sinh lý, thể lý chỉ thể tương thích với những cái cửa sổ, ngôi nhà…Tuy nhiên, về nhận thức nó nêu ra những câu hỏi: Vì sao ánh sáng có hình vuông? Vì sao ánh sáng có màu xanh, một cái ô cửa kính màu xanh? Vì sao ánh sáng đến từ phương đông, một cái cửa sổ hướng về phương đông…? Những câu hỏi này chỉ  là những hiện tượng. Một khi tháo dỡ các tấm kính, ngôi nhà…ta nhận ra ánh sáng là tòan thể. Và là vô phương….
   Mặt trời thì bao giờ cũng ở đó….
  
   Nghi vấn của Hawking là một khi ý thức có thể tìm hiểu về tòan thể vũ trụ, mặc nhiên nó có thể tác động vào vũ trụ. Tương tự việc sau khi tìm hiểu kiến trúc, kết cấu của một ngôi nhà ta có thể thay đổi hình dạng của nó…






Nói về một hình dáng cố định tĩnh tại, nguyên thủy của ngôi nhà là một việc tương đối. Nó tùy thuộc vào nhận thức, và cả là ý muốn của người nhận thức…Ngôi nhà trước mặt tôi trong kiến trúc gôtích của nó. Sau khi tìm hiểu cẩn thận, tôi có thể kiến trúc lại theo một mẫu nhà hôp hiện đại chẳng hạn.Một lý thuyết vũ trụ, là lý thuyết thống nhất…là không có tận cùng. Nó  tùy thuộc vào sự tác động của ý thức…Nhìn nhận này đem lại sự ngạc nhiên nào đó…
  Tuy nhiên, ngạc nhiên có tính nhị nguyên này sẽ được khắc phục  khi nhìn nhận rằng  không có sự tách ly, sau 
bất kỳ thời gian nào giữa ý thức và cái nó quan sát. Việc lùi lại, và thực ra  là phải lùi lại khi ý thức nhận ra nó chỉ là một đệ nhị nhân trong cái đệ nhất nhân là tòan thể. Tòan thể biểu lộ nó qua ý thức hơn là điều ngược lại…
   Ta hình dung ánh sáng trong vận hành của nó đập lên một bức tường. Sau đó là sự dội lại. Hiện tượng  hồi quang…Những giới hạn nhận thức chính là các bức tường đó. Nó phản ánh nhiều điều trong đó có biểu lộ chính nó. Một bức tường vàng,  hình chữ nhật…Nó có thể biểu lộ vài khả tính ánh sáng nguyên thủy trên đường vận hành nhưng không đạt đến chính bản thể đó…
   Các lý thuyết, mô hình, quan điểm là những bức tường như vậy. Nó khả dụng, khả ái tuy nhiên nó chỉ là một tiếng vọng, một cái bóng….
   Ta lại hình dung  rằng tòan bộ sinh họat  con người từ nhận thức, hành động, kiến tạo văn minh là một tập số nguyên. Tòan thể chính là một tập số thực. Tập số nguyên này không phải là một tập ly khai, đặt nằm bên







tập số thực. Nó là tập con của số thực….Nhận thức, cái đã biết là những số nguyên trên tập số thực  ấy…Trong nó chứa  đựng cái chưa biết và cũng là nền tảng…Trong quan hệ là tập con nó không thể có ảo tưởng tách ra như một tập hợp độc lập để lấp đầy tập số thực ….
   Tôi tưởng rằng tôi đang nhận thức một cách độc lập nhưng thực ra, tôi chỉ là sự biểu thị một tiếng nói, một tia sáng trong dãi ngân hà. Và, đã là sự biểu thị thì “Nhà ngươi nói năng vậy hả !”…(Kinh Thánh)
   Ánh sáng trong vận hành của nó thì miên viễn, bất tuyệt, bất khả tư nghì….
   Như vậy thì có thể làm gì? …
   Ta lại thấy rằng, một kết quả nhận thức và ngay cả trong tiến trình nhận thức thiết lập một quan hệ thuộc về cảm ứng, bản thể của tồn tại…Nói rõ là, không có sự khác biệt hay xa lạ giữa “cái tôi” và “ anh”…Những gì đang xảy ra với anh cũng là xảy ra với tôi đó…Một sự đồng cảm sâu rộng sẽ phát lộ…Trong khi tôi vui vẻ, một người thân của tôi cách đây 1000km  sẽ hoan hỉ. Và ngược lại, một cơn giận dữ của người đó làm tôi tức ngực… Thóang phiền muộn của người yêu, vì xa cách, làm tôi xao động. Nàng ở đâu đó trong xiêm y vàng nhạt và vào ra chờ đợi. Đến không vậy?...
   
   Tôi phải đứng dậy và đi ngay…
   
    Sự phát lộ tình cảm có tính chất sâu rộng và tòan thể này là một thực  tại…Thực ra, nó không phải là một đạo lý bên ngòai được mang đến như  cái hoa hay chai rượu…Nó đã xảy ra như vậy!...Nó đã nở hoa như vậy,






trong lòng nó…Một người mẹ sẽ chẳng hỏi con vì sao bị té ngã. Việc tức khắc là đỡ đứa con dậy! Những  hỏi han sẽ là sau đó, hoặc không cần thiết…Một người khác, có thể hỏi xem đứa bé vì sao té, những suy nghĩ việc đỡ dậy mang lại lợi ích gì..Một tính cách duy lý và duy lợi…
   Một khi ta nhận ra tính chất đồng lọai, người giống người trong những chiều sâu thẳm sẽ là sự xôn xao và lưu luyến  của tương thông và liên hệ….
   Rồi thì ta nhận ra, việc ngắt  cánh  hoa  sẽ làm biến sắc một dải mây đang bay lượn. Ta sẽ hành động khác…Trong khi tôi, thật tế nhị và dịu dàng nâng một
con bồ câu trên tay thì ngay đó trên tóc sẽ là những cánh hoa đang liên tục được thả xuống cùng với hương thơm ngào ngạt. Trong khi tôi lúc bây giờ đã là 12 giờ đêm,  tiếng nhạc du dương đang vang vọng  khắp căn phòng nghe như từ sâu thẳm, cặm  cụi chỉnh sửa những dòng chữ cuối cùng thì trên những ngón tay  là sự bắn ra các tia sáng đỏ, vàng và trắng…Quả vị, nếu như cần phải nói là sự sống trong ngây ngất, trang trọng cùng những dòng sinh khí liên tục tuôn chảy qua bản thể….

                            Sài gòn. Ngày 26-Tháng Năm
                           Ngày 8-Tháng Sáu. Năm 2009

                                                                                                           

  


Thứ Hai, 7 tháng 3, 2016

ĐIỆN ẢNH- LINH ẢNH

                                    11-ĐIỆN ẢNH
        
  
   Thực ra, mỗi nhà văn chỉ viết một  tác phẩm.Có một ý tưởng như thế. Tác phẩm duy nhất mà tôi viết chính là cái Một và những biểu hiện của nó.Là thơ ca, tôn giáo, mùi hương hay nhân vật…Tôi  đã phác họa  vài con đường, và bây giờ lại lên một con đường khác: Điện ảnh. Đầu tiên là những ba rie.
  Tôi đã đọc cuốn Nghệ  thuật điện ảnh.Cái bất ngờ khi đọc đến những trang cuối trong cuốn sách là các so sánh liên hệ. Điện ảnh giống với cái gì? Thơ ca!...
   Sự chỉ ra tương đồng này nằm trong chính cuốn sách. Tôi chỉ bổ sung vài cảm thụ.Phương tiện của Điện ảnh là hình ảnh. Nó tương tự các văn tự trong thi ca. Một câu thơ là một tổ hợp nhịp điệu và ý tưởng, cảm xúc… Trong khi điện ảnh thông qua cấu trúc kịch bản lập ra một nhịp điệu. Qua nhịp điệu ấy ta nhận ra đời sống trong một góc cảm thụ. Góc cảm thụ này trãi rộng theo một  giai đọan lịch sữ hay thu về diễn tiến của một đôi tình nhân. Phim Tam quốc chí  và Thần y….Những gì vươn đến nhịp điệu là thơ ca. Và trong điện  ảnh là nhịp  điệu của hình ảnh, tình huống và sự kiện…Một đặc trưng của điện ảnh là  nhịp điệu  linh họat, kịch tính và sự năng động của nó…
    









   Cái hàm ẩn là ý nghĩa thông tin mà điện ảnh đem lại. Một và nhiều khung hình lập ra một câu văn, hay thơ. Và tòan bộ một  tác phẩm, bộ phim là một bài thơ hoặc  truyện ngắn, tiểu thuyết. Trong văn chương ta chỉ nghe,
hoặc  đọc  mà chưa được thấy. Tuy nhiên, cái cần thấy này đã hàm ẩn  đâu đó. Hoặc ít ra cái nhu cầu được thấy. Điện ảnh cho ta cái còn lại, là hình ảnh, sự thấy. Trong cảm thụ  lại xảy ra điều ngược lại. Sau sự thấy chúng ta chiêm nghiệm, cần một đúc kết. Tức, nó cần đến một ngôn ngữ…Tất cả đều là liên tục và tiếp diễn…Thi ca dọn đường cho điện ảnh và điện ảnh cần đến thơ ca. Rồi thì, qua  những gì hội tụ ta nhận ra trong một bài thơ là một tác phẩm điện  ảnh. Trong sự bố trí các từ ngữ, cảm xúc. Tức một kịch bản của ý. Trong các hình tượng và  sau cùng âm nhạc mà một bài thơ có thể mang lại… Và cái  tỏa ra liên tục trong tác phẩm điện ảnh  là thơ ca….Tất cả đều bàng bạc, tuôn chảy và ánh vào nhau… Sự xóa nhòa các biên giới không phải là sự thủ tiêu những đặc  trưng của lọai hình. Nó chỉ nhấn thêm những gì mà lọai hình cần phải có, các gía trị cực đại của nó…
  Phương diện khác, điện ảnh là nghệ thuật của nghệ thuật, bao hàm trong nó văn học, hội họa, kiến trúc, âm nhạc, nhiếp ảnh…Sự thu nhiếp các lọai  hình này chỉ  ra một vị trí vô song của điện ảnh. Các nghệ thuật lân cận không phải nằm trong một sự tích hợp.Cái này đặt bên cái kia mà như một sự thẩm thấu. Sự mở rộng vô bờ của nó.
  Một tình huống trong đời sống, thường là chúng ta không nghe được âm nhạc. Tuy nhiên, tình huống ấy trong phim ảnh ta đựơc nghe âm nhạc đi kèm. Điều đặc








sắc ở chỗ. Người xem không đặt ra câu hỏi âm nhạc ở đâu lúc đó. Âm nhạc không như một sự tiếm vị hay dàn xếp mà hiện hữu và chung trong một tiếng nói, trong một mạch cảm xúc…
    Điều này, xét thực ra không phải là một bố trí nghệ thuật.  Những gì điện  ảnh thể hiện chỉ là một phản ảnh
khác.Trong đời sống, vồn dĩ đã tồn tại âm nhạc mà với việc lắng nghe ta có thể cảm thụ…Cội nguồn âm nhạc này là một điều bất ngờ nhưng hiện hữu. Nó tựa như ta có  thể  nghe những giai điệu của cát, đá và hoa nếu như có một thẩm âm của Sư Khóang…. Điện ảnh thể hiện điều ấy. Nó phát lộ một hiện tượng mà trong một cấu trúc nghệ thuật cho phép xảy ra, tạo điều kiện xảy ra. Nói cách khác, điện ảnh thể hiện một cách sâu sắc các hiện tuợng và quan hệ trong tự nhiên, bản thể.
   Ta hình dung, đạo diễn, các nhạc sĩ, diễn viên…là những cái kính hội tụ đang cộng hưởng và tập  trung. Kết quả là ta nhận ra thực tướng trong những gì uyên áo và bản thể. Âm  nhạc, ánh sáng trong sự dàn trải và tiết chế…đang nằm trong tự thể… 
  Mỗi hình ảnh tương ứng một âm thanh. Nó  chứa đựng, hoặc  biểu thị một âm thanh nhất định. Trong sự xem, một cách tĩnh tâm và sâu sắc ta có một sự nghe. Tức là âm thanh xuất hiện. Chẳng hạn màu đỏ như một tiếng nói, tuyên ngôn. Màu xanh như một âm trầm và dài. Màu tím như một lời thầm thì …Trong sự nghe, nhẹ nhàng hơn ta thấy một hình ảnh…Tất cả là một biểu thị và là một thực tướng.Nói rõ hơn qua một ví dụ. Trong đời sống, ta nhận ra  lữ khách trên đường qua một thóang nhìn hay trong sự tán tâm nào đó.Quanh anh ta là im lặng




hay tiếng ồn. Một trường cảnh trong phim cho hình tượng này sẽ có âm nhạc đi kèm.Là một khúc viôlông khắc khỏai hay tiếng dương cầm đều đều gõ nhịp.Không phải sự bố trí của đạo diễn mà là ngược lại. Đạo diễn, hay nhạc sĩ là người nghe ra những giai điệu như vậy từ đời sống. Qua quan sát sắc sảo và cảm thụ tinh tế  đạo diễn trình ra sự nghe qua sự thấy của mình…  
   Một điểm nhấn là sự kiện. Sự kiện trong một  bộ phim là điều thiết yếu. Nếu không khán giả sẽ mau chóng rời khỏi màn hình.Cảm xúc, đựợc  duy  trì  bởi một ý tưởng nào đó là sự tăng tiến. Nó không dừng ngang với các vạch xuất phát mà bội sinh hoặc  tiêu hủy. Và rồi nó kết tập trong hành động…Hành động không nhìn qua một dòng chảy các  cảm xúc là một sự  bộc phát và bạo phát. Tuy nhiên, dòng chảy đã làm mềm nó, hoặc ít ra là cái mà khán giả xem là hợp lý. Nó tựa như một dòng nước cuốn trôi một tảng  đá.
     Ngạc nhiên ở chỗ…vào những giây phút cuối ta mới thấy hiện diện của tảng đá. Tức một sự kiện, kịch tính, hành động…Nhận vật lúc đầu phim còn  im lặng, nói ngầm. Sau đó thì chính kiến, đối thọai và khẳng định.Sau  rốt, như các phim Mỹ, nhân vật nổ súng!...Thực ra, khẩu súng đã có từ đầu. Những tán tỉnh, ngần ngại đôi khi là những váng nổi của một cái gì rắn chắc bên dưới. Ta có một thế giới quan như Đốt. Trên phương diện khác, thật phức tạp và ảo hóa. Các pháp không xen tạp lẫn nhau.
   Từ một góc nhìn khác. Lý tưởng sẽ là khi đạo diễn cũng là nhà nhiếp ảnh, thiết kế mỹ thuật, nhạc sĩ. ..Sự chênh các mức cảm thụ không đảm bảo việc đạo diễn có một bộ phim như ý. Chẳng hạn đạo diễn hình dung, và cảm thụ ra một bộ phim như thế. Trong khi nhạc sĩ lại hình dung ra một bộ phim như thế….
 


                                                                                                                                                                       
   Từ  sự chênh này  dẫn tới sự  so le giữa nhạc phim và trang trí, diễn xuất của diễn viên…Khi nhà đạo diễn có thể làm tòan thể công việc ấy, ta có thể có đuợc một  bộ phim sáng chói hay một thất bại thảm hại!...
  Dòng phim hành động là một nảy sinh tất yếu trong lịch sử điện ảnh. Nó biểu lộ  nhu cầu giải tỏa, hành động trong tâm lý người xem ở cường độ cao nhất. Lại nữa, những gì mà đời thực con người không thể thực hiện, phim  đã làm cái công việc trợ giúp…Nhân vật nổ súng…!
   Nói khác đi, phim ảnh làm một cuộc sống khác, như một phần bù  những gì mà trong đời sống thực của con người không thể thực hiện.
  Trong khi xem một bộ phim, khán giả  được sống một cuộc sống khác. Nó hòan hảo hơn nếu đó là một bộ phim hay. Và có  khi nó dội ngược…Cái nhìn tòan thể thì phim ảnh làm một sự bổ sung cho những gì người xem còn thiếu trong tòan bộ hiện thực…
    Từ góc nhìn khác, phim lịch sử…Điều thú vị chắc chắn ở chỗ qua một bộ phim lịch sữ các người sáng tác, là nhà văn, đạo diễn, diễn viên …khán giả được sống lại những kinh nghiệm lịch sử. Điện ảnh trở thành một thứ bảo tàng sống của lịch sử. Phương diện nữa, lịch sữ đã thăng hoa và chỉ còn đựoc cảm thụ như vật phẩm của cái đẹp…Một trận đánh trực tiếp xảy ra ta không thể nhìn nhận những cái đẹp của nó. Như thế thật là vô nhân. Khi tái hiện sẽ là tác động điều tiết của cái đẹp…Ta nhận ra, con người đang xem xét, điều chỉnh lại chính mình. Sự cách biệt trong các thế hệ là không đáng kể….Một trận đánh không bao giờ được thể hiện như thực. Nó né tránh




những tàn bạo và quá cỡ. Một cái chết sẽ chỉ được trình diễn như sự tung tóe của  một dòng máu bắn lên tường….Sự giảm thiểu này chỉ ra một cái gọi nhân tính của con người.Nó tồn tại độc lập…Nó dẫn đến niềm tin có  một sự tiết độ trong tổng thể…Thực tế sự việc, Kinh Kha có thể đâm hết kiếm. Qua điều tiết của nghệ thuật và
là một  sự lùi lại bởi nhân tâm, Kinh Kha trong phim không làm điều ấy. Tráng sĩ  chỉ làm một cái công việc rút kiếm…Kinh Kha, là diễn viên này, vốn là thực ….
  Phim viễn tưởng, đáng nói ở chỗ khác.Những con ma cà rồng biểu thị các thế lực thực đang tồn tại. Điều mà mắt thường không thấy được đã xuất hiện trên phim ảnh qua cái gọi “hư cấu “của nhà văn. Nó không khác gì sự  khao khát, nhục cảm, tham vọng quá độ của xã hội. Nó là một hiện thực và là một kích thước khác của đời sống. Tương tự là khi nhìn những chiếc lá bay là những chiếc lá bay. Nhìn sau đó chính là một cơn xóay. Nó biểu hiện những sức mạnh khác….Tham vọng, nhục cảm….trong tòan  thể xét ra chỉ là những khuôn mặt của năng lượng. Một người bệnh tật không thể ăn hay uống nhiều…Như vậy, với những con ma cà rồng hay những cái vòi rồng chúng ta phải làm gì? Thực ra, có thể làm gì? …
   Một cái gì tự nó biểu thị là tự nhiên. Tiếng chim hót, sóng biển hay một cơn lốc…Tuy nhiên nó không phải tòan bộ hiện thực. Có một sự chuyển hóa…Nhưng trước khi chuyển hóa một đối tượng ta cần phải nhận  rõ đối tượng. Việc nhận ra những con ma cà rồng như một  hiện thực là bước khởi đầu mà phim ảnh đem lại trong dáng vẻ thuyết phục của nó…
  Những gì? …






    Những cổ máy, con người máy, siêu nhân lại biểu thị một tính chất khác. Con người đang bị nghiền nát trước những gì nó chế tạo.Phía sau hình tướng là những thiết chế cơ giới hay suy nghĩ cơ giới…Cơ giới và  nhuần nhị, máy móc và trái tim…Cơ giới là một bước tiến của kỷ thuật, cùng lúc đó nó gây ra hiệu ứng: sự thất bại của tâm trí. Bản thân máy móc không có gì đáng nói. Vấn đề  ở chỗ, con người sử dụng và phụ thuộc  vào các thiết bị ấy…
   Trong một kích thước phóng đại, thực ra là một kích thước khả dĩ  phía  tương lai, đó là sự tiếm quyền của người máy. Về hình tướng có thể  là như vậy. Trong khi về thực tướng là đang xảy ra điều này….
   Trong một vài bộ phim có thể  cảm thụ  những gì đó sâu sắc. Bản năng gốc. Bộ phim kể về một nữ văn sĩ sau khi giao hoan với những người tình đã thủ tiêu họ…Nó biểu lộ những gì sâu thẳm  trong tâm lý con người.. Sự dâng hiến và cự tuyệt. Dâng hiến xong và cự tuyệt…Hạt nhân, sự trinh tiết hay thân thể cô gái là một cái gì đó ẩn sâu qua vô số hình thức. Gắn với một ý thức vị kỷ là sự bảo vệ, giữ gìn nó đến tận cùng…Không phải những gì sâu thắm ta chỉ nói với một vài người thôi sao? Và, có khi không lọai trừ việc cả đời im lặng. Không chia xẻ ….
   Điều này  ta nhớ lại một nhân vật của Đốt. Sau khi kể ra một bí mật cá nhân, anh ta quay trở lại người vừa nghe chuyện với ý định thủ tiêu…Đó là con người trong tòan bộ các phương diện của nó. Cởi mỡ và kín đáo.Dâng hiến và cự tuyệt. Niềm tin và sự phản bội…
   Tần tụng là bộ phim trong rất nhiều bộ phim nói về Tần Thủy Hòang. Mối quan hệ giữa cái đẹp và quyền lực, tự





do và tất yếu được biểu lộ qua quan hệ Cao Tiệm Ly và Tần Thủy Hòang. Khúc Tần tụng là một cuộc hôn phối nếu như có thể. Một sự hưởng ứng, hòa giải của hai nhân tố xem chừng như khác biệt này…Cuộc hôn phối không thành. Thú  vị trong sự dao động của Cao Tiệm Ly qua tòan bộ quan hệ với vua Tần trước khi dẫn đến kết cục….Hình ảnh cuối cùng: Tần Thủy Hòang bước lên cửu đỉnh trong tòan bộ sự  cô độc….
      Hiển nhiên là một bộ phim lịch sử nhưng ta có thế nhận ra cặp Vua Tần và Cao Tiệm Ly cũng là cặp có trong mỗi con người…Giũa duy lý, sau rốt là duy ý chí và duy cảm, duy mỹ…Độc quyền và hòa giải. Bạo lực và xoa dịu. Ngạc nhiên nhất khi người thực hiện bạo lực lại cần một sự hưởng ứng, xoa dịu. Bởi vì trong tận cùng bóng tối vẫn tồn tại vài điểm sáng nào đó. Đó là linh quang. Trong khi ta cần xoa dịu, yếu tính mềm mại trong ta đang có đó. Nó cần một đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu…  Trục xuất yếu tính này là sự đông cứng, bóng tối vĩnh viễn. Thực ra  đó chỉ là những gì ta hình dung. Bởi vì bóng tối vĩnh viễn đã thuộc về những lỗ đen…Nói như vậy, những gì tồn tại bao giờ cũng là chỗ trú ngụ của ánh sáng!
  Bây giờ ta xem xét một nhân tố quan  trọng trong điện ảnh: Ánh sáng. Ánh sáng xuất hiện trong điện ảnh từ việc quay cho đến khi trình chiếu…Không có ánh sáng không có nghệ thuật điện ảnh…Một bài thơ hay bản nhạc  ta có thể nghe trong bóng tối. Tuy nhiên không thể xem phim cùng bóng tối. Một cái màn hình mờ mịt, và như vậy không có phim đâu cả. Không  gian này là thú vị nếu như xem xét cẩn trọng…
 






                                                                                                   Cái nhìn chuyển chỗ qua những tấm rèm. Không phải nghệ thuật, là  điện ảnh đang thiết kế, phối trí ánh sáng mà ngược lại. Ánh sáng soi chiếu trong nó và làm phát sinh nghệ thuật. Có  nhiều tầm mức. Hội họa, kiến trúc, điện ảnh là những tầm mức khác nhau…Điều này hòan tòan giản dị tuy nhiên trong phưong diện tự kỷ chúng ta quên điều ấy…Cũng tựa như những cái cây chỉ thể sống
trong không khí. Ta vốn quen nhìn theo các hình khối và tiêu điểm nên tưởng rằng có một không khí độc lập, bên ngòai cái cây ấy…Thực ra, cái cây là sản phẩm của không khí, bao hàm cả không gian chung quanh cái cây ấy….
  Một đặc sắc khác. Tính hồi quang trong nghệ thuật điện ảnh. Xem phim là xem lại những gì ta đã sống, từng trãi bằng ánh sáng của nhận thức mới. Nhận thức này được cung cấp bởi các văn sĩ, đạo diễn , thiết kế…Những gì ta đang sống, đương đại lại là diễn ra trong bóng tối! Không phải nói ánh sáng thường ngày của mặt trời. Sự  việc  tương tự như khi  ăn ta không thể  tâm tình, nói chuyện. Chỉ sau đó  một độ lùi ta mới có sự xem xét, nhận thức lại một cách tòan thể. Điện ảnh làm công việc đó. Tức cái đương xảy ra, và sau đó  là đã xảy ra đến tác phẩm điện ảnh là một độ  lùi thời gian. Sau độ lùi ấy ta có thể kiểm nghiệm những gì đã làm, một cách hợp lý hơn, nhân văn hơn…
  Trong các lọai hình khác vẫn xảy ra điều ấy nhưng với những cấp độ khác. Chẳng hạn trong hội họa ta có thể thưởng lãm một bức tranh sơn thủy không có con người









và họat động của nó. Trong âm nhạc, dấu vết của cuộc sống càng trừu tượng hơn thế. Chỉ trong điện ảnh cuộc sống mới được thể hiện một cách trọn vẹn nhất….Cái đích nhắm đến là sự tương tác của ánh sáng trong đó….








  






















Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2016

Ý THỨC- CÕI Ý

3- Ý THỨC


   Xem xét về ý thức sẽ rơi vào hai trường hợp sau. Trước hết, đó là sự tiếp xúc bên ngoài đối với ý thức. Qua lời nói, hoặc chữ viết ta biết đến ý thức ở sự vật thể hóa của nó. Sự vật hóa này là chính là ý niệm, tư tưởng. Từ một ý thức trong suốt, vô hạn nó đã biểu lộ ra ở vật thể hữu hạn. Sự xem xét như thế là ở bên ngoài, và cũng là phía sau nó. Nói khác rằng, ta đang quan sát thân xác, tiểu sử của ý thức. Quan sát này chưa ngang tầm với nó. Nếu như đó là một quan sát không tiền niệm, khuynh hướng, ta nhận được một tư tưởng, hoặc chỉ là ý niệm mà ý thức trước đã trải qua. Cũng tức rằng, từ ý thức quan sát đến ý thức kia có một thời gian. Có một thế giới đã và đang thành lập ở đó.
   Mở rộng cho sự quan sát nhiều ý thức trong trường hợp này. Ta nhận được, từ một ý niệm cho đến tư tưởng, giáo điều, triết thuyết. Toàn thể những điều ấy vẫn thường xảy ra ngộ nhận đồng hóa với bản thân quan sát. Đây là điều khai sinh cá nhân, bởi sự định xứ ý thức trước đối tượng của nó, tức thể xác. Sau đó, ý thức biểu thị như các nền văn hóa, lịch sử… Sự xác thực của một và cũng là nhiều thế giới như thế, rốt ráo cũng chỉ là ý thức đang triển khai nó qua những ý niệm, tư tưởng. Chấm dứt sự triển khai, nó ngộ nhận rằng ở đó có một cái chết. Mở ngoặc ở đây, như vậy, cái chết là đang xảy ra trên từng khoảnh khắc. Ta sẽ còn trở lại với xác định này.
   Ta cũng nhận ra khi xem xét đến đây, sự đối diện của ý thức trước thế giới. Cũng tức rằng sự phản tỉnh của ý thức trước toàn thể ký ức của nó. Ký ức này chính là những ý niệm, tư tưởng, những xác định cố định, và sau hết những cách nghĩ. Nhận thức này mở ra tự do nội tại giữa ý thức và ký ức. Ở đây ta  đừng đặt câu hỏi tự do giữa “tôi” và “người khác”, “cá nhân” và “xã hội”, bởi lẽ nó chỉ là những ý niệm. Một câu hỏi như thế còn đặt ra chỉ là sự ngộ nhận tiếp tục của ý thức. Nó lại rơi vào vòng luẩn quẩn do nó, và từ nó.
   Cũng cần thấy rằng, vẫn từ kết quả quan sát, nảy sinh những quan niệm sau. Tự do giữa ý thức và tiền niệm của nó được quy tiếp việc ý thức “xóa bỏ” các ý niệm của nó. Tức rằng nó kêu gọi việc lãng quên ký ức. Khi đó là một sự kiện đã mang tính áp đặt. Tự do ý thức ở chỗ thông đạt toàn thể những ý niệm của nó. Không ý niệm, không tư tưởng đã là sự vắng lặng, không thế giới. Ở đó không có gì để nói, và kể cả ý thức không có đường vào.
   Vẫn cùng trường hợp nhưng với quan sát không có khuynh hướng, tư tưởng. Biểu lộ đơn giản là việc nghe, xem với thái độ nào đó. Không những tư tưởng trước mất đi sự nguyên vẹn vốn có của nó,  ý thức đang tiến hành quan sát trong tình trạng phân tán. Đối thoại sẽ nảy sinh trong trường hợp này. Ở đó xảy ra ngộ nhận từ hai ý thức. Nó tưởng rằng có hai mâu thuẫn, từ hai ký ức. Tuy nhiên hai tư tưởng đó là trong cùng một ý thức không nhận ra cơ cấu của nó. Nhận ra cơ cấu là chấm dứt mâu thuẫn. Ta trở lại trường hợp đầu.
  Và, ta xem xét trường hợp ý thức thể nghiệm chính nó. Trường hợp đầu, hình dung ta đang khảo sát ngôi nhà mà chủ nhân, tức ý thức đã bỏ đi. Tiếp xúc trực tiếp chỉ thể xảy ra khi ý thức thể nghiệm chính nó. Và nữa, sự thể nghiệm không qua bất kỳ phương tiện của nó, tức các xác định bằng tư tưởng, khuynh hướng. Sự thể nghiệm bằng những phương tiện như thế, rốt ráo là việc đồng hóa nguồn sáng với hình bóng, vật thể. Nó không cho ta chính nguồn sáng  đó. Cũng thể nói rằng, sự thể nghiệm nó là chính nó, tức ý thức. Ở đây không có sự nghe, thấy, tư tưởng và người tư tưởng, xác định, khẳng định, phủ định… Ở đây không có bất kỳ ý niệm tức là, hay là, hoặc là, như là để xác định…

     Đang là, tức vừa qua một sự tịch lặng. Không có bất kỳ thế giới thành lập ở đó. Đó là sự bất động của ý thức. Chuyển động thường nhật với nhu cầu xác định, những chiều hướng quen thuộc của ý thức đã bị đình chỉ. Đó là sự định thần, nói theo cách khác. Lại thấy, ở thời điểm đó vốn không bị giới hạn chính là không thời gian. Nó thường hằng, không có sự xác định và mọi giới hạn. Nó không có tên gọi, điều đó là dĩ nhiên.
   Để tiếp tục, ta vẫn phải dùng đến ý niệm, ngôn ngữ để biểu đạt. Lúc này, trạng thái ý thức vừa thể nghiệm đã nằm trong xác định của ý thức. Tức rằng, ta đang tư tưởng về nó, thời gian đã được tạo thành với những giới hạn không thể tránh khỏi. Trạng thái bất động của ý thức, cùng với đó sự thể lộ thực tại. Ta chú ý, sự bất động này chỉ cho việc chấm dứt những hoạt động của ý thức qua ký ức, những khuynh hướng quen thuộc của nó. Không có nghĩa ý thức đã chấm dứt ở đó.
   Để đơn giản, ta hình dung như sau. Có một quan sát cho ý thức nào đó, tức “người đối diện”. Ta có thể không biết người đó nghĩ gì, có những ý niệm nào phát khởi nơi đó. Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận hay thừa nhận ý thức này. Điều đang có là một hình dung của ý thức từ ta về nó. Hình dung này chính là một sự Thấy.
   Lại chú ý rằng, sự Thấy, tức sự định thần là đồng thời thực tại…Xác định nguồn gốc, quy về một bản thể, là vật chất hay tinh thần cho thực tại là điều vô nghĩa. Nói rõ hơn, từ thực tại khởi thủy là nhu cầu xác định của ý thức. Nó đặt ra câu hỏi: thực tại  này là gì? Có một ý niệm đã phát khởi, tức “thực tại”. Sau đó, ý niệm được ý thức xác định theo một tiến trình ý thức nào đó. Tư tưởng đã tạo thành. Câu trả lời nếu có chính là sự nối tiếp tư tưởng. Ý thức có một tư tưởng, song sự đồng nhất với thực tại đã bị phá vỡ. Theo dõi tiến trình, ta không có nhận xét về tính đúng, sai của tư tưởng. Bởi lẽ, những nhận xét như thế là tiếp tục tư tưởng. Cơ sở, và kết thúc của nó, không gì khác hơn những ý niệm.
   Thực tại này là “hòn đá”, ”cây xanh”, “con người”, “thế giới”…Các ngoặc kép biểu thị việc sử dụng ngôn từ, ý niệm giới hạn và cố định để trỏ về nó, vốn không phải là ngôn từ
và giới hạn bất kỳ. Cố gắng diễn đạt cho nó là vô biên, vô lượng, vô sinh, vô diệt… Tuy nhiên, các xác định biên, lượng, sinh  diệt… là do ý thức giới hạn. Các phủ nhận, do vậy, là phủ nhận chính những ý niệm của ý thức. Không nên tiếp tục ngộ nhận rằng, có một tự tính thực tại là vô biên, vô lượng, vô sinh, vô diệt. Tương ứng thực tại là khoảnh  khắc vô niệm của ý thức.
   Ý thức kinh nghiệm ngộ nhận rằng ”hòn đá”, “cây xanh”, “con người”… là những đối tượng có thực. Do vậy, nó không nhận ra thực tại đang là trước nó. Khởi từ ngộ nhận nó tìm đến một bản thể ẩn sau hiện tượng. Theo chiều hướng khác, nó tìm đến một nguyên lý quyết định cơ cấu, vận động của hiện tượng, thành lập nên thế giới. Nó xem rằng có một lịch sử nhân loại, lịch sử vũ trụ tính bằng ngàn năm, triệu năm… Nhận ra tính bất xác của một ý niệm đơn giản hơn một  thế giới ý niệm diễn dịch qua vô số tư tưởng. Tuy nhiên, thế giới ý niệm xét ra cũng chính là một ý niệm đang nảy sinh trong ý thức nào đó. Ý thức không biết rằng thời gian đang nảy sinh theo nó, vì nhu cầu xác định từ nó. Dĩ nhiên, thời gian này là có thể chấm dứt.
   Ta cũng nhận ra một trong những trò đuổi bắt khác của ý thức. Sự phát khởi ý niệm năng lượng của nó giới hạn theo những ý niệm khác: là cơ năng, nhiệt năng, quang năng… Sau đó, nó thực hiện sự hợp nhất, tức định luật bảo toàn năng lượng. Ta nhận ra những cái gọi cơ năng, nhiệt năng, quang năng…là những ý niệm giới hạn của nhận thức. Nó tưởng rằng có các đối tượng và quá trình thực. Chẳng hạn “củi đốt”,  “ngọn lửa”,  “cháy”,  “trái đất”, “mặt trời”…Một khi nhận ra cái gọi củi lửa, mặt trời, trái đất chưa bao giờ là những hiện tượng riêng biệt thực hữu. Cũng vậy, chưa từng có bất kỳ quá trình củi cháy nên lửa, trái đất quay quanh mặt  trời…Năng lượng sẽ bảo toàn với cái gì?
   Ta lại chỉ ra một dạng khác của quan niệm quá trình. Ý thức nhận ra thực tại là “chứng”, “ngộ”, như nó xác định. Từ ấy nó rơi vào việc phân chia các tầm mức ý thức: cao, thấp, mê, ngộ…Hiển nhiên, việc phân chia này là một tư tưởng của ý thức. Cái gọi “chứng” xảy ra khi có một ý thức định vị “chứng” và đối tượng “được chứng”. Tức  rằng ở đây vẫn có sự phân hai và diễn dịch. Diễn ngôn khác, ý thức đang vật hóa  ở  những điểm tế nhị của nó.
   Và chấm dứt xem xét, ta nhận ra sự phân biệt của chính xem xét. Ta đã sử dụng các ý niệm “này” và “ khác” cho quá trình diễn giải. Cũng như thế, là sự phân biệt một và nhiều ý thức. Ta đã bỏ qua định tính nhưng sự định lượng vẫn còn lại. Vượt trên mọi phân biệt, kể cả xác định là ý thức thể nghiệm chính nó, tức sự kiện vô niệm. Đó là sự im lặng.

                                   Hoài Ân, tháng 10, năm 1996